Chương 1: Giấc mộng Lilith
Lilith hỏi thần: Cha ơi, vì sao con với Adam không giống nhau gì hết?
Jehovah: Vì cậu ta là chồng con mà.
Lilith: Vậy sao anh ta là nam, mà con lại là nữ? Tại sao so với anh ta con lại yếu ớt đến thế?
Jehovah: Nhóc con! Con sinh ra đã được định như vậy, chỉ cần còn ở vườn địa đàng, con sẽ luôn là đứa yếu hơn.
Lilith: Thế thì người hãy để con rời khỏi nơi này đi, con muốn trở nên thật mạnh mẽ cơ.
Sau đó Lilith bỏ rơi Adam, rời khỏi thiên đường, hướng về biển lớn…
“Đây là thần trừng phạt Lilith, hay Lilith tự trừng phạt mình?”
“Không,” Có người nói, “Nhất định là do thần trừng phạt, Lilith vì sao muốn trừng phạt bản thân mình chứ? Nàng đã dũng cảm theo đuổi ước nguyện, khi Eve lại không dám mơ mộng viển vông về một ngày tự do cơ mà.”
“Bởi vì,” Cô nghe được âm thanh của chính mình hồi đáp, “Adam và Lilith là anh em sinh đôi.”
…
Bùi Nhã Văn mở to đôi mắt trống rỗng nhìn lên trần nhà ố vàng, giọng nói trong giấc mơ ngày một rõ ràng, đến nỗi cô hoài nghi liệu có phải mình đã vô tình thốt ra những lời này hay không.
Trong nháy mắt, đồng hồ báo thức phát ra tiếng chuông inh ỏi, Annie cô bạn cùng phòng của Nhã Văn rên rỉ tức giận, với tay chộp lấy nó, nhưng âm thanh vẫn vang lên bên tai Nhã Văn, cơ hồ chẳng thể tan biến.
Annie đột nhiên bật dậy, làm ván gỗ trên chiếc giường đã có mười mấy năm lịch sử phát ra tiếng cọt kà cọt kẹt như kháng nghị việc sáng nào cũng bị cô nàng hành hạ.
“Mình ghét nhất phải dậy vào sáng sớm,” Annie dùng giọng Đài Loan đặc sệt cằn nhằn, “May còn có cái đồng hồ ồn ào như muốn dựng người chết sống lại này đây.”
Nhã Văn âm thầm thở phào nhẹ nhõm, chỉ có mình cô biết bản thân cũng không phải bị chuông báo thức làm cho tỉnh giấc.
Tiếng quan thoại của Clubmed Cherating là “Câu lạc bộ Điạ Trung Hải Trân Lập Đinh Loan “, tọa lạc trên Kuantan- một thành phố đẹp đến nao lòng bên bờ Đông bán đảo Malaysia. Trong những năm chín mươi của thế kỷ trước, nơi này từng là địa điểm nghỉ dưỡng tuyệt vời cho những du khách châu Âu đến Malay. Nhưng qua thời gian, các khu du lịch và thắng cảnh du lịch mọc lên như nấm, phòng khách sạn và cơ sở vật chất ở đây lại tương đối cũ kỹ nên cũng chẳng còn nhiều khách như giai đoạn cường thịnh. Tuy vậy đây vẫn là thánh điạ yêu thích của nhiều gia đình đến nghỉ mát, đơn giản vì chế độ G.O. độc quyền tại Clubmed giúp khách nước ngoài không còn phải lo lắng về vấn đề thông dịch ngôn ngữ bản địa nữa.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Nhã Văn liền trở thành nhân viên G.O. trong dây chuyền du lịch này. G.O. có thể nôm na hiểu là “Người tổ chức sự kiện thân thiện”, thực tế những người đó kiêm luôn rất nhiều việc. Ngoài làm tốt nhiệm vụ được giao, họ còn tham gia các hoạt động biểu diễn buổi tối, tổ chức vũ hội hay làm bồi bàn ở quán ba, hơn nữa phải luôn luôn giữ nụ cười trên môi và kịp thời giúp khách hàng giải quyết các vấn đề cá nhân.
Mới đầu Nhã Văn ở đảo Bali công tác hai năm, sau đi Bintan, năm trước mới xin chuyển đến Cherating. Ngoại trừ việc giới thiệu với khách khứa làng du lịch Trung Quốc, công việc chính của cô là huấn luyện bắn tên.
Bảy giờ sáng là giờ bắt đầu tiệc đứng hàng ngày, đối với khách đến đây nghỉ dưỡng mà nói, ba bữa đều được thưởng thức mỹ thực phong phú đa dạng khiến họ vô cùng hưng phấn và vui vẻ. Nhưng nhân viên thì cảm thấy mãi cũng thành quen, lâu dần không tránh khỏi cảm giác nhàm chán.
“Trời đất quỷ thần, sữa chua gì mùi vị nhạt thếch muốn phát ói quá đi mất!” Annie vừa phàn nàn vừa xúc một thìa đầy cho vào miệng.
“Sữa chua gặp cô cũng muốn phun không kém.” Tưởng Bách Liệt đặt khay và bát ngồi xuống đối diện với Nhã Văn.
Anh ta là bartender, như mọi nhân viên ở đây, da dẻ anh đen bóng vì phơi nắng, ánh mắt dài nhỏ chỉ cần khẽ đảo qua là có thể khiến vô vàn phụ nữ chết mê chết mệt, du khách cùng người ngoài nghề đều gọi anh là Gabriel. Anh ta là người Đài Loan, chất giọng tuy không giống với Annie cho lắm, nhưng Nhã Văn cảm thấy cũng có thể dùng từ “Nhã nhặn” để hình dung vậy.
Nhã Văn đằng hắng cổ họng: “Xem lại đi cô nương, mỗi lần đều chê ỏng chê eo chúng mình nhàm chán muốn chết, cuối cùng vẫn phải bám đuôi tụi này đi ăn đấy thôi. Nhìn cậu mãi tụi này cũng phát ốm lên rồi.”
Annie nhướng mắt tức giận, Nhã Văn và Tưởng Bách Liệt thấy biểu tình trên mặt cô nàng thì không khỏi phì cười.
“Mấy tên vô vị.” Annie chẳng nói chẳng rằng ngốn hết hộp sữa chua, sau tiếp tục xả giận lên mấy món Malaysia.
“Nghe đồn cuối tuần trước có thêm đồng nghiệp mới, cũng là người Đài Loan nhé.” Nhã Văn lên tiếng.
“Nói sao nhỉ” Annie nghĩ nghĩ, “Mình hình như đã từng gặp qua, là nam, tên Đại Hoành. Tính cách cũng tốt, nhưng mà… bộ dạng cứ là lạ.”
“Hả, cô cũng cảm thấy vậy à.” Không hiểu sao mỗi khi tụ tập với Nhã Văn và Annie, giọng điệu của Bách Liệt càng thêm hóng hớt.
“Như thế nào?”
“Cả hai lần tôi quay đầu đều thấy hắn đứng sau anh, làm tôi sợ đến nỗi nhảy dựng.”
“Không chừng hắn có ý với anh đấy.”
Bách Liệt lập tức xị mặt, khiến Nhã Văn không nhịn được muốn cười ha hả, vì theo những gì Annie tiết lộ, anh ta trừ bị mấy bà ngoại quốc theo đuổi còn hay bị những tay đồng tính tán tỉnh dây dưa.
“Nhã Văn, chiều cô làm gì?” Bách Liệt nhét đầy mồm bánh sừng bò, nhồm nhoàm hỏi.
“Tôi hẹn với tài xế ra sân bay Kuantan rồi.”
Hai người còn lại đều trợn mắt nhìn.
“Đi đón người.” Cô bổ sung.
“Nhưng buổi chiều cậu được nghỉ mà,” Annie nói, “Lão người Pháp lại bắt tăng ca à?”
Lão người Pháp mà bọn họ nhắc đến là trưởng thôn của làng du lịch, nghiêm khắc thái quá, bị ghét không để đâu cho hết.
“Không phải,” Nhã Văn hơi ngập ngừng, “Đón người nhà, cô ấy đến thăm nom.”
“Ai thế?” Annie lập tức nhiều chuyện.
“Dì nhỏ của mình.” Nét mặt Nhã Văn tràn đầy bất đắc dĩ.
“Ui trời thất vọng…”
Nhã Văn cười đẩy cô nàng: “Đi thôi, đến giờ làm việc rồi đấy.”
Sân bay Kuantan quả thực vừa nhỏ vừa đơn sơ, được cái lúc nào cũng có xe du lịch chuyên chở giữa làng với sân bay, nếu có khách nước ngoài tới, Nhã Văn và Annie sẽ thay nhau ra đón tiếp. Nhiệt độ ở Malaysia và đảo Bali không chênh lệch quá nhiều, tuy vậy khí hậu lại rất nồm, khi mới đến Nhã Văn không quen lắm, cô thấy nhớ một Bali vẩn đục đầy bọt biển. Thời gian đó cô lao đầu vào làm việc với sự tập trung cao độ mà quên luôn cảm giác của bản thân, chỉ khi nhìn thấy nụ cười hài lòng nơi du khách mới bất tri bất giác mới nhận ra mình đã hòa nhập cùng nơi này lúc nào không hay.
“A Văn.” Tào Thư Lộ đằng xa trông thấy Nhã Văn thì cuống quýt vẫy tay.
Nhã Văn cũng nhiệt tình vẫy lại, bọn họ đã hai năm không gặp, lần gần đây nhất, là ở đảo Bali.
“Dì nhỏ,” Nhã Văn thuận tay xách luôn hành lý của Thư Lộ, “Dì mang ít đồ vậy?”
“Con đừng quên dì chỉ là khách ba lô thôi đó.”
Thư Lộ mỉm cười, cô đen đi không ít do phơi nắng, chắc phải bôn ba bên ngoài nhiều bận.
“E rằng dì là vị khách ba lô đầu tiên của con rồi.”
Hai người không hẹn mà cùng cười, Thư Lộ chỉ hơn Nhã Văn bảy, tám tuổi, nhiều lúc cô cảm thấy “dì nhỏ” là người dõi theo từng bước trưởng thành của cô, thậm trí trong một vài khía cạnh họ còn thân thiết hơn cả mẹ con.
Thư Lộ từng ở Thượng Hải chủ trì một tiết mục radio, lúc đó cô ấy cực kỳ quyết đoán, kiên định, thông minh, lương thiện, nói chung là hình ảnh người phụ nữ thời đại mới Nhã Văn vô cùng thần tượng. Nhưng cô ấy lại có thể dứt khoát vì tình yêu, vì gia đình mà từ bỏ sự nghiệp.
Về điểm này, Nhã Văn nghĩ Thư Lộ và mẹ mình hoàn toàn tương phản, Tâm Nghi mẹ Nhã Văn cũng là người chẳng hề tầm thường, bà là bác sĩ tình nguyện rong ruổi trên thảo nguyên châu Phi, nhưng trái với Thư Lộ, vì theo đuổi lý tưởng của bản thân nên đã chấp nhận từ bỏ tình yêu và gia đình.
Nhã Văn không dám tùy tiện nhận xét đúng sai, ai cũng có quyền lựa chọn cuộc sống như ý nguyện, người khác không thể chọn thay họ, càng không thể phê phán họ.
Thời điểm đến làng du lịch đã là bảy giờ tối, Nhã Văn giúp Thư Lộ làm thủ tục rồi đưa cô tới phòng nghỉ.
“Chắc đây là lần du lịch xa xỉ nhất của dì mất.” Thư Lộ than thở.
“Nếu dì chịu khó đọc mấy tờ lá cải kiểu ‘Tiết lộ danh sách khách sạn năm sao cao cấp trên thế giới’ thì ngôi làng này phải nói là cực kỳ nghèo nàn mới đúng.” Nhã Văn kéo va li lên hành lang không nhanh không chậm.
“Đề nghị được đấy, dì sẽ chú ý.” Thư Lộ nhìn cảnh sắc xung quanh, lòng hơi bất an.
“Buổi tối dì nhớ khóa cửa kỹ càng, ở đây nhiều trộm lắm, có hội còn biết cạy cửa kính cơ.” Sau khi nói xong, Nhã Văn hài lòng thưởng thức bộ dạng trợn mắt há mồm của Thư Lộ.
Nhã Văn thấy một con thằn lằn chạy dọc theo vách tường phủ đầy bụi và mạng nhện, thường xuyên có du khách trông cảnh như vậy mà sợ hãi hét toáng, còn cô lại không mảy may ngạc nhiên hay hoảng hốt. Annie gọi đó là hiện tượng tê liệt cảm xúc.
Tê liệt ư? Nhã Văn cũng chẳng rõ nữa, cô chỉ biết, ở đây, cô không cần nhớ mà cũng không cần gắng gượng quên đi tất cả.
Sau tám giờ, nhà ăn chật ních người, bọn Nhã Văn tìm một chỗ cạnh bể bơi yên vị ngồi xuống.
“Làm việc trong này sướng thế.” Thư Lộ khen.
“Để con nghĩ thử…” Nhã Văn dừng một chút, rồi dùng một loại biểu tình đã được hưởng lợi mà còn khoe mẽ thích thú nhấn mạnh, “Đúng vậy đó dì.”
Lúc này, Bách Liệt và Annie không mời mà đến, ngồi xuống cùng dùng bữa với các cô.
“Giới thiệu chúng tôi đi chứ nhỉ.” Bách Liệt vừa ăn chuối vừa tỏ vẻ thành thật.
“Gabriel, Annie” Nhã Văn bất đắc dĩ, “Đều là đồng nghiệp của con, dì có thể nhìn thấy bọn họ ở quầy bar và cửa hàng thời trang cao cấp.”
Sau đó cô nói: “Đây là dì nhỏ của mình, từng là người chủ trì tiết mục radio nổi tiếng nhất Thượng Hải lúc bấy giờ, hiện là tác giả tự do, làm việc cho Lonely Planet.”
“Woah…” Bách Liệt và Annie dùng giọng Đài Loan đặc sệt cảm thán.
“Không đâu không đâu.” Thư Lộ vội vàng phủ nhận, “Dì chỉ chủ trì một chương trình thông thường, rất nhỏ thôi.”
“Cũng không đơn giản nha.” Giọng Annie đầy hâm mộ, ánh mắt càng thêm sùng bái.
“Nhã Văn,” Bách Liệt giỡn còn ra vẻ nghiêm túc, “Thế mà ban sáng cô chê dì cô vừa già vừa béo vừa ngốc … Nhưng thực tế trái ngược hoàn toàn à!”
Annie không nhịn được cười sặc sụa, “Hôm nay tận mục sở thị, dì trẻ trung, xinh đẹp, thông minh, quả thực tài mạo song toàn, là hóa thân cho sự hiệp nghĩa và chính nghĩa toàn thế giới…”
Nhã Văn vừa đẩy Bách Liệt vừa nói với Thư Lộ: “Con còn chưa cảnh báo dì, mấy tên đàn ông G.O. tuyệt không thể tin tưởng, nhất là tên nào mắt một mí….”
“Van cô đấy,” Bách Liệt dán mặt xuống bàn tiếp tục ăn chuối, “Đừng có mỗi lần gặp du khách là một lần càm ràm như vậy được không.”
“Thế mà đã làm sứt mẻ tí mị lực nào của anh đâu.” Annie nín cười.
“Thật không vậy.” Bách Liệt không cho là phải trừng mắt.
“Đừng trách tôi không nhắc nhở hai người nha,” Nhã Văn bỗng nhiên cười xấu xa, “Cha người Pháp đang từ cửa nhà ăn đi vào kìa.”
Bách Liệt và Annie lập tức cúi mặt chuồn khẩn, lặng yên không một tiếng động, cái biểu hiện “Ông không thấy tôi ở đây” thật quá giống nhau.
“Xảy ra chuyện gì vậy?” Thư Lộ ngơ ngác
“Thôn trưởng giá lâm, mà hai tên kia lại đi làm muộn,” Nhã Văn nhìn đồng hồ, “Giờ này anh ta lẽ ra phải có mặt ở quầy bar rồi.”
Thư Lộ không lên tiếng, Nhã Văn ngẩng đầu phát hiện dì nhỏ đang chăm chú đánh giá mình.
“Sao thế dì…”
“Ánh mắt cậu trai vừa rồi hướng về con như có điện ấy.”
“Thật ạ,” Nhã Văn ngơ ngác, “Con có biết đâu.”
“A Văn à…” Giọng Thư Lộ cũng trở nên ấm áp.
“?”
“Coi con sống rất tốt, dì cũng an tâm. Nhưng con có bao giờ nghĩ đến việc… về nhà một lần không.”
“…” Nhã Văn giật mình, một lúc lâu sau mới nhẹ nhàng nở nụ cười gượng gạo, “Con bận quá nên chưa sắp xếp được thời gian.”
“Ba con nhớ con lắm.”
“…” Nhã Văn cúi đầu trầm mặc. Bao lâu rồi cô chưa gặp ba mình? Chắc cũng từ khi cô ra đi. Đối với việc con gái rời khỏi nhà khi ấy mà ngẫm lại, ba ba từ hoảng sợ, lo lắng biến thành tức giận, buông xuôi, cô không dám giải thích với ông, càng không dám giải thích với bất kỳ ai.
Tết Nguyên Đán năm kia, ba Nhã Văn từng muốn dành thời gian nghỉ ngơi để tới thăm cô, vé máy bay cũng đặt xong, nhưng hai cha con lại cãi nhau to trên điện thoại, cuối cùng ba ba dỗi không đến nữa. Thực ra trong lòng cô luôn áy náy không yên, nhưng cô không thể trở về, đối mặt với cuộc sống đó, với người đàn ông đó một lần nữa…
“A Văn,” Thư Lộ nói, “Rất nhiều chuyện chúng ta sợ hãi không dám đối diện, nhưng rốt cuộc chúng ta vẫn phải làm vậy, con hiểu chứ.”
“…”
“Nơi này có thể là bến cảng tránh mưa gió tạm thời, tuy nhiên không thể cứ trốn ở đây cả đời được.”
“Con hiểu…” Nhã Văn gật đầu, “Con hiểu hết mà.”
Thư Lộ nhìn cô một lúc lâu, như muốn xem xem cô có thật sự thông suốt hay không.
“Tốt, dì tin con tự rõ những điều mình đang làm. Con nên biết dù xảy ra chuyện gì thì mọi người cũng mong A Văn hạnh phúc.”
Hốc mắt Nhã Văn nóng ran, đến lớp ba tiểu học cô mới lờ mờ cảm thấy gia đình mình không đầy đủ. Mỗi năm cô và mẹ gặp nhau vài lần, ba thì thường xuyên tăng ca, những lúc đơn độc cũng chỉ có thể sợ hãi gào khóc khản cổ. Khi trưởng thành cô mới nhận ra mình được yêu thương rất nhiều, ba, mẹ, chú, dì, tuy ai cũng có cuộc sống riêng nhưng tất cả đều quan tâm che chở cô.
Là họ giúp Nhã Văn không chìm đắm trong cô đơn.
Đương nhiên, cả Nhã Quân nữa.
Dường như lâu lắm rồi Nhã Văn không còn nằm mơ về Lilith, một năm hay hai năm? Vậy mà sáng hôm nay, cô lại bừng tỉnh giữa cơn miên man trong giấc mộng, chuyện này có nghĩa gì đây?
“Dì nhỏ,” Nhã Văn nũng nịu như mấy cô bé con làm nũng với người yêu, “Gặp dì con mới phát hiện con nhớ dì lắm lắm đó…”
“Thật hay giả vậy…” Thư Lộ buồn cười nhìn cô, “Lại chẳng phải là do dì còn chưa đưa cho con quà nên bây giờ con mới nịnh nọt dì như thế này à?”
Nhã Văn lắc đầu, cười nhưng không phản bác. Cô chỉ đơn giản ngộ ra rằng tình thân chính là món quà quý giá nhất mà mình được nhận.
Ba ngày sau, Thư Lộ lên đường, Nhã Văn bận việc nên không thể ra sân bay tiễn cô, nhưng trước đó vẫn không kìm được mà sụt sùi một lúc lâu.
Thư Lộ an ủi, nói không được khóc, phải cười lên.
Trời nhá nhem tối, Nhã Văn tìm thấy cuốn sách Thư Lộ viết mà mình vẫn cất ở ngăn kéo tủ đầu giường, tên gọi “Phía bên kia của tình yêu và âm nhạc”. Mỗi khi có thời gian rảnh, cô đều mở ra xem, phần lớn vì hình ảnh rất đẹp, mặc dù vậy cô vẫn thích nhất là lời Thư Lộ viết cuối sách.
“Dẫu em tưởng đã quên, nhưng lại không thể quên; dẫu em chẳng muốn nghĩ, sao lòng còn chấp niệm…”
Lời tựa ấy khiến Nhã Văn chột dạ. Cần bao nhiêu thời gian cô mới hiểu được đạo lý này đây, hay phải chăng vĩnh viễn cũng không thể hiểu nổi.
“Nhã Văn ơi.” Annie tắm rửa xong mệt mỏi nằm lăn trên giường.
“?”
“Cậu trước đây mang tâm tình gì mà chạy đến nơi này vậy?”
“Thì chỉ cảm thấy không thể ở nhà ngây ngốc cả ngày được thôi.”
“Cậu biết không,” Annie thành thật kể, “Mới đầu mình đã nghĩ cậu không phù hợp với nơi đây.”
“?”
“Bởi vì tính tình cậu quá trong sáng, còn luôn nhớ nhà nữa.”
“Cậu cảm thấy mình nhớ nhà?”
“Đúng thế,” Annie gật đầu, “Nếu không phải đi làm, cậu thà ở lỳ trong phòng, hay quanh quẩn trong làng chứ không muốn ra ngoài. Hủ nữ như vậy thì làm sao chịu nổi cuộc sống phiêu bạt không có điểm dừng thế này chứ.”
“…”
“Nhưng sau mình lại thấy, cậu không phải là không thích đi chơi, căn bản trong lòng có quá nhiều tâm sự, cho nên thường hay nhíu mày lơ đãng.”
“…”
“Dù sao tụi mình cũng cho rằng cái khí chất mỹ nhân âu sầu này thực sự hấp dẫn tuyệt đối đó nha.” Cuối cùng Annie chốt lại một câu.
“Thiệt sao trời…” Nhã Văn khóc không ra nước mắt.
“Ừ, nhưng mà sau khi gặp dì cậu, mình mới phát hiện bản thân thật ngây thơ biết bao, cứ tưởng đã nhìn thấy cả thế giới mà hóa ra vẫn chỉ bò bõ trong cái ao làng.”
Quả thật, Nhã Văn cũng từng mộng tưởng như vậy. Cô từng này tuổi rồi, luôn nghĩ mình đã hiểu hết mọi sự đời, lại không biết rằng, mình vẫn lạc trong cái thế giới mà bản thân tự tạo ra.
“Dì ấy dường như thực sự biết rõ nguyện vọng của bản thân, còn chúng ta vẫn cứ mờ mịt sao ấy, cho nên dì ấy chính là tấm gương thục nữ để mình phấn đấu.” Cô nàng vỗ đùi đến tét một cái rồi chỉ thẳng lên trời, cứ như thể đã tìm được thần tượng đáng giá để sùng bái vậy.
Nhã Văn cười khổ, Annie đâu có biết rằng Thư Lộ để có thể trở thành Thư Lộ của ngày hôm nay cũng đã phải trả giá rất nhiều.
“Nếu một lúc nào đó mình có thể giống cô ấy, đi du lịch khắp nơi, hứng thì sáng tác, phiêu diêu tự tại như vậy thật tốt biết bao.”
Nhã Văn cất sách vào tủ, tắt đèn bảo: “Ngủ đi, ngày mai cậu còn phải ra sân bay đón người cơ mà.”
Có đôi lúc, Nhã Văn tự hỏi khi mẹ và dì Thư Lộ bằng tuổi cô bây giờ, liệu có như cô không, lạc lối khiếp đảm trong mê mải.
Ngày hôm sau là một ngày đầy mây buồn bã, cảm giác như mưa đến nơi. Trải qua tháng hai bận rộn, rồi cũng đến tháng ba tháng tư thanh nhàn, Nhã Văn thích mùa này nhất, nhưng không thích mưa liên tục và không khí lúc nào cũng vô cùng ẩm ướt. Toàn bộ buổi sáng cô chỉ phải dạy cho hai học viên người Úc, sau khoảng mười phút họ thấy chán rồi bắt đầu chạy về phía bãi cỏ chơi đá banh.
Nhã Văn quan sát bầu trời, dường như lại sắp mưa nữa nên cô thu dọn cung tên cất vào kho, dõi mắt lên đồng hồ trên tường, tự nhủ thầm đã đến giờ cơm.
Quán bar bên cạnh nhà ăn tính ra chỉ còn vài khách, mà quầy pha chế thì bị bu kín bởi một đám thiếu niên vừa chơi từ vịnh lên bờ. Nhìn thấy cô Bách Liệt liền mỉm cười vui vẻ rồi tiếp tục pha cho tụi nhỏ sữa chuối lắc.
“Tôi một ly Smile nhé.” Nhã Văn nói với Bách Liệt.
“Được rồi,” Bách Liệt vẻ mặt nghiêm túc, “Quý khách xin chờ cho một chút.”
Nhã Văn cười cười, bỗng chốc hiểu tại sao mọi người đều gọi anh là “Gabriel mắt điện”, đôi mắt anh nhỏ dài, trông như tao nhã mà tràn đầy mị lực, cộng thêm vẻ mặt cao ngạo trời sinh, dễ dàng khiến cho phụ nữ bị mê hoặc bởi ý nghĩ anh chính là “chàng hiệp sĩ” của mình. Mỗi tội, Nhã Văn xoay người quay đi để anh ta không trông thấy nét mặt mình bây giờ, “hiệp sĩ’ này có vẻ hơi đen thì phải, chả thấy giống thiên thần Gabriel tí nào, có khi lại giống một ông trong “Tứ Đại Thiên Vương” biểu tình giữ tợn tay ôm tỳ bà đứng canh giữ cổng chùa hơn ấy.
“Cô đang cười trộm tôi sao.” Đặt ly sữa lắc màu vàng sau lưng Nhã Văn, Bách Liệt thấp giọng hỏi.
Nhã Văn kinh ngạc quay đầu ngó anh, cô chưa nói gì nhưng biểu hiện ‘Anh biết hay vậy’ trên mặt đã khai thật hết tất cả.
“Cô dễ bị đọc vị quá mà.” Bách Liệt vừa bật máy xay vừa nói.
Nhã Văn nhăn mặt trêu anh: “Đi ăn cơm thôi nào.”
Tuần này tổ chức lễ hội ẩm thực theo chủ đề, cô thấy một vài người đồng nghiệp đang trưng cầu ý kiến du khách sau khi thưởng thức đồ ăn. Nhã Văn đi theo bọn họ bắt chuyện vài câu rồi trở về bàn. Dạo này sức ăn của cô có hơi nhiều, cô đổ lỗi cho bầu không khí gia đình quá đỗi quen thuộc ở Cherating này. Nếu Bali đậm chất lãng mạn, Bintan cực kỳ yên tĩnh, vậy Cherating chính là vô cùng ấm áp. Khách tới nghỉ dưỡng hầu hết là các gia đình, hơn nữa phần lớn nhân viên G.O. công tác tại đây đều là người Trung Quốc, nhiều nhất khu vực châu Á. Cô thực sự cảm thấy Cherating chính là một ngôi nhà lớn mà cô là thành viên trong đó, mặc dù lúc đầu cứ có cảm giác như mình bị lọt vào một khung cảnh cũ kỹ trong phim Quỳnh Dao. Rất nhanh sau Nhã Văn đã quen với chất giọng Đài Loan của các đồng nghiệp, khiến cho Annie cũng phải ghen tị: “Woah, hâm mộ quá đi nha.”
Annie là một cô gái chân thành lương thiện thẳng thắn, lúc nào cũng có cách khiến người khác trở nên vui vẻ, chính là khen ngợi họ hết lòng. Nhưng tiếp xúc lâu ngày Nhã Văn mới phát hiện, cô gái này hình như luôn mang trong mình cảm giác tự ti.
Annie sinh ra trong đại gia đình, từ nhỏ đã bị cha mẹ bắt phải lấy anh chị làm tấm gương, anh chị em cô đều rất tài giỏi, nhưng cô nàng thì bình thường không có sở trường gì đặc biệt, cô luôn cảm thấy mình là kẻ dư thừa, vậy nên lúc nào cũng dễ hâm mộ người khác, và đặc biệt chỉ để ý đến ưu điểm của họ.
Bách Liệt so với Annie thì trái ngược hoàn toàn. Tuy anh ta rất ít nhắc đến, nhưng Annie cho biết anh ta là con nhà danh môn vọng tộc, Bách Liệt rất khinh thường mấy kẻ thích ra vẻ ta đây vì anh đơn thuần cảm thấy cực kỳ hài lòng với bản thân, không nhất thiết phải chứng minh điều đó ra ngoài. Anh ta dường như chưa bao giờ khen ngợi ai, hay ít nhất là khen ngợi thật lòng. Nhưng nhìn chung những điều này cũng chẳng ảnh hưởng gì đến hình tượng rộng rãi và khiên tốn của anh chàng, Nhã Văn nghĩ bụng, đại khái điều này chính là sức hấp dẫn bẩm sinh đi.
“Hôm nay buồn quá.” Annie vừa uống nước ép dưa hấu vừa ngồi xuống đối diện với Nhã Văn, “Cảm giác như cỏ dưới chân muốn chảy nước ra rồi kìa.”
Nhã Văn chỉ cười cười, lúc nào Annie cũng đưa ra những so sánh kỳ quái như vậy.
“Nghe nói cuối tuần này đội xây dựng đã bắt đầu thi công rồi.” Bách Liệt ngồi cạnh Nhã Văn, uống một ly tự mình pha chế.
“Bắt đầu rồi sao,” Annie mở to mắt, “Bao lâu?”
“Tôi không biết nữa,” Bách Liệt nhún vai, “Nhiều nhất là hai tháng, chủ yếu là phải xong trước mùa du lịch.”
“Ước gì được sửa bãi cỏ trường bắn thành sân xi măng thì hay biết mấy.” Nhã Văn mong đợi.
“Mình hi vọng họ xây thêm mấy cửa hàng thời trang nữa, bây giờ đã hết chỗ trưng bày rồi, xoay đi xoay lại mấy vòng mà cũng làm đổ giá được á.” Annie nói.
“Tôi chỉ mong có thể sửa phòng của chúng ta thành phòng cách âm tốt tốt một chút là được” Bách Liệt than đầy bất đắc dĩ.
“…” Nhã Văn và Annie không hẹn mà cùng lườm Bách Liệt với ánh mắt khinh bỉ.
“Á à!” Bách Liệt nhíu mày hồ nghi, bỗng nhiên hiểu ra, “Mấy cô tiểu thư nghĩ đi đâu vậy, tôi muốn xây phòng cách âm với cái phòng ông người Nam Phi bên cạnh, tối nào cũng chỉ kịp đếm đến hai là lập tức ngáy khò khò như sấm…”
Nhưng hai vị nữ sĩ lại cho rằng anh ta gần mực thì đen, đã đen nay càng đen, vẫn nhìn đầy nghi ngờ.
“Nghe tôi nói này các cô,” Bách Liệt bày ra bộ dạng cực kỳ nghiêm túc, “Đàn ông không phải cứ thấy một người phụ nữ bất kỳ là liền nổi thú tính đâu, đàn ông đâu có ngu xuẩn thế.”
Nhã Văn và Annie liếc nhau, nín nhịn cười.
“Còn nữa, cho dù toàn bộ đàn ông G.O. có ngu xuẩn như hai cô nghĩ đi nữa,” Anh dừng lại một chút, bày ra bộ dáng cao ngạo, “Tôi chắc chắn cũng không giống vậy.”
“Ố ồ,” Nhã Văn nhẹ nhàng nói, “Vậy là anh không có hứng thú với phụ nữ hả?”
“…” Bách Liệt nín lặng, mắt phượng híp chặt, đoán ý đồ của Nhã Văn. Anh ta cảm thấy cô nàng đang đào bẫy chờ mình nhảy xuống.
“Vậy là,” Ánh mắt Nhã Văn đảo qua đảo lại, “Ý nói… thực ra anh có hứng thú với đàn ông chứ gì?”
Bách Liệt bỗng thấy rùng mình, như có giác quan thứ sáu từ từ quay đầu.
“Hi…” Anh chàng mới đến Đại Hoành như có như không đứng sau anh, nhìn anh đầy chờ mong.
“Hi…” Nhã Văn và Annie cùng đứng dậy chào hỏi lại theo phép lịch sự.
“Tôi… ngồi đây có được không?” Đại Hoành ấp úng hỏi.
“Tất nhiên rồi.” Hai vị nữ sĩ đồng thanh.
Đại Hoành ngồi đối diện Bách Liệt, liếc mắt đưa tình với anh, ngượng ngùng mỉm cười.
Bách Liệt nhảy dựng lên, cứng nhắc nói: “Đến giờ làm rồi, tôi phải đi đây, bái bai trước nhé.”
Nhã Văn cố hết sức nhịn cười, có lẽ chỉ ở đây, cô mới có thể quên đi mọi chuyện, giống như một cô gái vô tâm vô phế, hưởng thụ những ngày này một cách trọn vẹn.
Nhưng trong lòng cô biết, cô gái vô tâm đó cũng đâu phải là cô. Nhã Văn cô, vốn là con người chỉ biết trốn tránh hiện thực mà thôi.
Giống như Nhã Quân đã từng nói, cô thật sự là con rùa rụt cổ thích tự lừa mình dối người.
Buổi tối cuối tuần có bữa tiệc tại bể bơi, chủ đề là hoa và màu trắng. Chạng vạng chiều, Nhã Văn đã dạy bắn tên xong, sau đó đi tới hỗ trợ mọi người. Clubmed G.O. hằng ngày đều phải làm việc tới hơn 12 giờ, nhưng công việc cũng rất thoải mái, nhất là vào ban đêm, Nhã Văn cùng đồng nghiệp sau khi tổ chức liền bị lôi kéo tham gia.
Mới đầu Nhã Văn cảm thấy mình không hợp với nền văn hóa khác biệt quá lớn, cô lớn lên trong một gia đình có truyền thống giáo dục lâu đời, tuy tính cách đôi nét hơi phản nghịch, nhưng cũng không thể tán đồng với những hành động phóng túng không biết biết chế nơi đây. Sau đó Nhã Văn bỗng nhiên thông suốt, cứ coi chuyện này như một nhiệm vụ cô phải hoàn thành đi, phóng túng đâu phải tội lỗi, cô chỉ cần làm tốt phần việc của mình là được.
Nhã Văn từ đó học uống rượu, học hút thuốc, học khiêu vũ như những vũ công chuyên nghiệp, học được cách ứng xử khi khách đến gần… Nhưng khi tiệc tàn, cô cũng chẳng còn lưu luyến, lại trở về dưới lốt một cô gái hay u sầu. Cô không nghiện mấy cuộc vui này, cô chỉ say đắm việc được hóa thân thành một bản ngã hoàn toàn khác.
Nhã Văn mặc áo trắng cùng với váy dài hoa hồng, mặt trên in đủ các loại màu sắc như váy áo người Hawaii, thực lòng cô rất thích hoa.
Du khách tụ tập ở quầy bar dần đứng lên hết, cùng đợi đến lúc nhà hàng mở cửa. Nhã Văn đi qua từng cái bàn thu nhặt những cốc thủy tinh đã rỗng không, đồng thời cung cấp thêm đồ uống cho khách. Nghĩ đến mái tóc dài dính bết đằng sau gáy vì mồ hôi, cô thấy hối hận tại sao mình lại không buộc đuôi ngựa chứ, ai mà ngờ nóng đến như vậy.
“E hèm!” Bách Liệt vẫy vẫy tay ra hiệu cho cô tiến lại gần, vóc dáng cao gầy của anh ta trong đám đông thật nổi bật.
Nhã Văn đem khay cốc tới quầy rượu, nghi hoặc đưa mắt hỏi.
Bách Liệt không nói gì, ngoắc ngoắc ngón trỏ.
Cô chúi người nhìn về phía trước, bỗng nhiên Bách Liệt lấy đâu ra một đóa hoa bách hợp rất lớn màu hồng nhạt, cài vào sau vành tai cô.
Nhã Văn ngước nhìn anh, rồi cười rộ lên, mọi mệt mỏi trong giây phút kia cơ hồ tan biến hết. Liệu có thực sự như Bách Liệt nói, cô quá dễ đoán hay không. Mà có lẽ, thấu được tâm can cô, cũng chỉ có Bách Liệt.
Cô bỗng quay đầu về phía đường cái, một người đàn ông đang đứng ở đằng xa, dưới chân có một cái vali nho nhỏ. Anh đã cắt kiểu tóc mới trông rất hợp thời, nhưng gương mặt vẫn như xưa; anh đen hơn rồi, cô cũng không nhớ anh lại gầy như vậy; trên sống mũi thẳng tắp giờ xuất hiện thêm một đôi kính, anh mấp máy môi như muốn nói gì đó, âm thanh chưa kịp phát ra đã bị nuốt chửng bởi tiếng nhạc ồn ào. Nhưng Nhã Văn biết, anh đang gọi tên cô:
“A Văn…”
Cô không ngờ ngày này lại tới sớm vậy, đột ngột đến nỗi cô chỉ còn biết đứng ngơ ngác ở đó, mặc cho Bách Liệt kẹp gọn mái tóc cô bằng những bông hoa bách hợp màu hồng nhạt kia.