Chương 1

CÔ NGHE TIẾNG GÕ CỬA, TIẾP THEO LÀ TIẾNG CHÓ SỦA. Giấc mơ vụt tan, chấp chới sau cánh cửa khép kín. Đó là một giấc mơ đẹp, ấm áp và gần gũi, và cô cảm thấy khó chịu. Cô không muốn tỉnh dậy. Căn phòng nhỏ tối om, đèn đuốc đã tắt hết. Cô với tay bật đèn ngủ, dò dẫm ngón tay trên thân đèn bằng đồng thau, thầm hỏi, Chuyện gì? Chuyện gì?

Căn phòng bừng sáng khiến cô choàng tỉnh; nó tạo cảm giác bất ổn, như phòng cấp cứu lúc nửa đêm. Cô thầm nghĩ, theo thứ tự: Mattie. Kế đến, Jack. Tiếp theo, Hàng xóm. Kế nữa: Tai nạn giao thông. Nhưng Mattie đang ngủ cơ mà? Kathryn đã thấy con bé đi ngủ, đã nhìn nó đi đến cuối hành lang, bước qua một khung cửa, cánh cửa đóng sầm lại, đủ mạnh để đưa ra một lời tuyên bố nhưng chưa khiêu khích đến mức để bị khiển trách. Còn Jack - Jack đang ở đâu nhỉ? Cô gãi đầu, xới tung mái tóc bị đè bẹp khi ngủ. Jack đang ở... đâu nhỉ? Cô cố gắng nhớ lại lịch trình: London. Dự kiến về đến nhà tầm giờ ăn trưa. Cô chắc chắn như thế. Chẳng lẽ cô nhầm, hay anh lại quên đem theo chìa khóa?

Cô ngồi dậy, chạm chân xuống sàn gỗ lạnh cóng. Cô không hiểu nổi tại sao cứ đến mùa đông là sàn gỗ của ngôi nhà cũ kỹ này lại mất hết hơi ấm. Đôi tất đen của cô kéo lên đến giữa bắp chân, cổ tay áo chiếc sơ mi cô mặc lúc đi ngủ, một chiếc sơ mi trắng đã sờn của Jack, tuột xuống qua khỏi đầu ngón tay. Cô không còn nghe tiếng gõ cửa nữa, và cô thoáng tự nhủ rằng mình đã tưởng tượng ra nó, đã mơ thấy nó, như thỉnh thoảng cô vẫn thường nằm mơ rồi tỉnh dậy trong những giấc mơ khác. Cô với tay lấy đồng hồ báo thức trên tủ đầu giường: 3 giờ 24 phút. Cô nhìn sát hơn vào mặt đồng hồ đen có nền dạ quang, sau đó đặt chiếc đồng hồ xuống bề mặt cẩm thạch của tủ đầu giường, mạnh đến nỗi nắp gắn pin bung ra và một cục pin lăn xuống dưới giường.

Nhưng Jack đang ở London, cô tự nhủ lần nữa. Còn Mattie đang ngủ.

Bấy giờ tiếng gõ cửa lại vang lên, ba tiếng gõ dứt khoát lên lớp cửa kính. Một cơn co thắt nhói lên ở ngực cô, truyền xuống bụng rồi nằm lại đó. Xa xa, con chó lại cất tiếng sủa cộc lốc, cáu kỉnh.

Cô cẩn thận bước trên sàn nhà, như sợ nếu đi nhanh quá, cô sẽ làm chuyển động một thứ gì đấy còn chưa bắt đầu. Cô nhẹ nhàng bật mở chốt cửa phòng ngủ rồi đi xuống cầu thang phía sau. Cô nghĩ con gái đang ngủ trên lầu và cô nên cẩn thận một chút.

Cô bước qua nhà bếp, cố gắng nhìn qua cửa sổ trên bồn rửa vào đường mòn vòng ra tận sau nhà. Cô chỉ thấy bóng một chiếc ô tô bình thường màu tối. Cô rẽ vào hành lang hẹp phía sau nhà, nền gạch ở đây còn lạnh hơn ván lót sàn, gót chân cô chạm lên băng đá. Cô bật đèn ở cửa sau và trông thấy, qua những tấm kính nhỏ phía trên cửa, một người đàn ông.

Anh ta cố không tỏ vẻ bất ngờ vì ánh đèn đột ngột. Anh ta khẽ nghiêng đầu sang bên, không nhìn thẳng vào lớp kính, như thể đó là hành động bất lịch sự, như thể anh ta chẳng việc gì phải vội, như thể lúc đó không phải là 3 giờ 24 phút sáng. Trong ánh đèn, trông anh ta có vẻ nhợt nhạt. Mi mắt sụp, tóc muối tiêu cắt ngắn, chải sang hai bên gọn gàng. Cổ áo măng tô dựng lên, vai chùng xuống. Anh bước ngay lên bậc cửa, chân giậm mạnh. Cô đánh giá tổng quan. Gương mặt dài, đượm buồn; áo quần tử tế; khuôn miệng thú vị, môi dưới hơi cong và dày hơn môi trên: không nguy hiểm. Khi chạm vào nắm đấm cửa, cô nghĩ, không phải phường trộm cướp, không phải quân háo sắc. Chắc chắn không phải quân háo sắc. Cô mở cửa.

“Cô là Lyons?” anh hỏi.

Và cô hiểu ra.

Là cách anh gọi tên cô, anh biết tên của cô. Nó hiện lên trong mắt anh, một ánh mắt mệt mỏi. Hơi thở gấp gáp của anh.

Cô lùi lại và cúi gập người xuống. Cô đưa tay ôm ngực.

Anh đưa tay vào qua khung cửa rồi chạm lên eo cô.

Sự đụng chạm đó khiến cô rùng mình. Cô cố đứng thẳng lên nhưng không thể.

“Khi nào?” cô hỏi.

Anh bước vào trong nhà và đóng cửa lại.

“Sáng nay,” anh đáp.

“Ở đâu?”

“Cách bờ biển Ireland khoảng mười sáu kilomet.”

“Rơi xuống biển à?”

“Không. Trên không trung.”

“Ôi...” Cô đưa tay lên miệng.

“Gần như chắc chắn đó là một vụ nổ,” anh nói nhanh.

“Các anh chắc đó là Jack chứ?”

Anh nhìn đi nơi khác rồi nhìn lại.

“Vâng.”

Anh nắm lấy cùi chỏ tay cô khi cô khụy xuống. Cô chợt thấy ngượng, nhưng cô không thể đứng vững nữa, chân cô sụm xuống. Cô không biết rằng cơ thể có thể bỏ mặc mình như thế, có thể ngoảnh mặt quay lưng như thế. Anh nắm cùi chỏ cô, nhưng cô muốn rút cánh tay về. Anh nhẹ nhàng đỡ cô ngồi xuống đất.

Cô cúi mặt xuống đầu gối rồi vòng tay ôm đầu. Trong đầu cô chỉ có tiếng ồn trắng, và cô không còn nghe thấy anh ta nói gì nữa. Ý thức mách bảo cô phải hít thở, lấp đầy buồng phổi. Cô ngước mặt lên, hít mạnh không khí. Như đang ở xa, cô nghe một tiếng nấc lạ lùng, không hẳn là tiếng khóc vì mặt cô vẫn khô ráo. Từ phía sau, người đàn ông cố xốc cô đứng dậy.

“Để tôi lấy ghế cho cô ngồi,” anh ta nói.

Cô lắc đầu. Cô muốn anh thả cô ra. Cô muốn chìm xuống nền gạch, tan chảy trên sàn nhà.

Anh lúng túng luồn cánh tay vào dưới cánh tay cô. Cô để anh giúp đỡ cô đứng dậy.

“Tôi sẽ...” cô nói.

Rất nhanh, cô dùng bàn tay đẩy anh ra rồi tựa lưng vào tường. Cô vừa ho vừa nôn khan, nhưng bụng cô trống rỗng.

Khi cô ngước lên, cô thấy vẻ mặt lo lắng của anh ta. Anh nắm cánh tay cô rồi dìu cô vòng qua góc nhà đi vào nhà bếp.

“Cô ngồi lên ghế đi. Công tắc đèn ở đâu?”

“Trên tường.”

Giọng cô gắt gỏng và yếu ớt. Cô nhận ra mình đang run lập cập.

Anh sờ soạng tay lên mặt tường để tìm công tắc rồi bật đèn lên. Cô đưa một tay lên trước mặt để che ánh sáng. Theo bản năng, cô không muốn bị nhìn thấy.

“Cô để ly uống nước ở đâu?” anh hỏi.

Cô chỉ vào một chiếc tủ. Anh rót một ly nước rồi đưa cho cô, nhưng cô không thể giữ vững. Anh đỡ các ngón tay cô trong lúc cô hớp một ngụm nước.

“Cô đang bị sốc. Cô để chăn ở đâu, để tôi đi lấy cho cô?”

“Anh là nhân viên hãng hàng không?” cô hỏi.

Anh cởi áo măng tô, áo khoác, rồi choàng áo khoác lên vai cô. Anh giúp cô cho tay vào tay áo, trong đó thật mềm mại và ấm áp.

“Không, trong Liên đoàn.”

Cô chậm rãi gật đầu, cố gắng hiểu chuyện này.

“Robert Hart,” anh tự giới thiệu.

Cô lại gật đầu, uống thêm một ngụm nước nữa. Cổ họng cô đau rát, khô khốc.

“Tôi đến đây để giúp đỡ. Sẽ khó vượt qua cú sốc này. Con gái cô có ở nhà không?”

“Anh biết tôi có con gái ư?” cô hỏi nhanh.

Và rồi cô nghĩ, tất nhiên là anh biết rồi.

“Cô có muốn tôi báo tin cho cháu không?”

Kathryn lắc đầu.

“Họ luôn nói Liên đoàn sẽ có mặt trước tiên,” cô nói. “Ý tôi là các bà vợ. Tôi có phải gọi con bé dậy bây giờ không?”

Anh ta liếc nhìn đồng hồ, rồi nhìn lại Kathryn, như tính toán họ còn lại bao nhiêu thời gian.

“Một chút nữa đi,” anh đáp. “Chừng nào cô sẵn sàng đã. Cứ từ từ.”

Điện thoại reo, một mũi răng cưa cứa vào sự im lặng trong nhà bếp. Robert Hart nhấc ống nghe lên ngay lập tức.

“Không bình luận,” anh nói.

“Không bình luận.”

“Không bình luận.”

“Không bình luận.”

Cô nhìn anh đặt ống nghe lên giá rồi dùng ngón tay xoa bóp trán. Anh có ngón tay dày, bàn tay to, dường như to quá cỡ so với thân người.

Cô nhìn chiếc áo sơ mi anh ta mặc, kiểu sơ mi cổ điển màu trắng sọc xám, nhưng cô chỉ thấy một chiếc máy bay giả trên bầu trời giả nổ tung thành triệu mảnh từ xa.

Cô muốn người của Liên đoàn quay lại và nói với cô rằng anh đã nhầm lẫn: Anh đã nhầm chuyến bay; báo nhầm người; chuyện không xảy ra như anh đã nói. Cô như cảm nhận được niềm vui từ điều đó.

“Cô có muốn tôi gọi điện cho ai không?” anh hỏi. “Để đến an ủi cô.”

“Không,” cô đáp. “Có.” Cô ngập ngừng. “Không.”

Cô lắc đầu. Cô chưa sẵn sàng. Cô cụp mắt xuống, nhìn vào chiếc tủ dưới bồn rửa. Trong đấy có gì? Nước rửa bát Cascade. Nước thông cống Drano. Nước tẩy rửa Pine Sol. Hộp xi giày màu đen của Jack. Cô cắn mặt trong của má rồi nhìn quanh nhà bếp, chiếc bàn gỗ thông nứt nẻ, lò sưởi dính bẩn ở phía sau, tủ Hoosier màu xanh cốm. Mới hai ngày trước, chồng cô đã đánh xi giày trong căn phòng này, chân anh đặt lên ngăn tủ đựng bánh mì mà anh kéo ra để làm điểm tựa. Đó thường là việc cuối cùng anh làm trước khi rời khỏi nhà. Cô thường ngồi trên ghế nhìn anh; và dạo gần đây nó đã trở thành một nghi thức, một phần trong tiến trình rời khỏi cô.

Mỗi khi anh rời khỏi nhà, cô đều cảm thấy vô cùng khó khăn - dù cô có phải làm nhiều việc đến đâu, dù cô mong mỏi có nhiều thời gian cho riêng mình đến nhường nào. Mà không phải là do cô sợ. Cô không có thói quen sợ hãi. An toàn hơn lái xe, anh luôn nói như thế, và anh lúc nào cũng tự tin, như thể sự an toàn của anh thậm chí chẳng đáng để phải nói đến. Không, đó không hẳn là sự an toàn. Chính hành động ra đi, hành động rời khỏi nhà của Jack, mới là điều khó khăn. Cô thường cảm thấy, trong lúc nhìn anh bước qua khung cửa, một tay xách chiếc túi bay vuông vức dày cộp, một tay cầm túi du lịch, mũ đồng phục kẹp dưới nách, rằng anh đang rời khỏi cô, đi xa mãi. Và, tất nhiên là thế. Anh rời khỏi cô để lái một chiếc máy bay nặng 170 tấn vào không trung, vượt đại dương đến London hoặc Amsterdam hoặc Nairobi. Cảm giác ấy không quá khó để nhận ra, và trong thoáng chốc nó sẽ biến mất. Kathryn sẽ trở nên quen thuộc với sự vắng mặt của anh đến nỗi cô đã cảm thấy bực mình trước sự thay đổi thói quen hàng ngày khi anh trở về. Và rồi, ba bốn ngày sau đó, chu kỳ lại lặp lại.

Cô đồ rằng Jack chẳng bao giờ cảm nhận về chuyện đi đi về về của anh như cách cô nghĩ. Dù sao thì, cảm giác của người ra đi không thể nào giống cảm giác của kẻ bị bỏ lại.

Anh chỉ là một tài xế xe buýt đẹp mã thôi, anh thường nói thế.

Mà cũng chẳng đẹp đẽ gì cho cam, anh nói thêm.

Đã từng nói như thế. Cô cố gắng chấp nhận thực tế. Cô cố gắng hiểu rằng Jack không còn tồn tại nữa. Nhưng cô chỉ thấy những chùm khói như tranh vẽ, các đường nét tỏa ra tứ phía. Cô để hình ảnh ấy biến mất nhanh chóng như khi xuất hiện.

“Cô Lyons? Có tivi ở phòng khác không, tôi muốn xem một chút?” Robert Hart hỏi.

“Trong phòng khách đấy,” cô nói, chỉ tay về phía trước.

“Tôi chỉ cần nghe xem bây giờ họ đang nói gì.”

“Không sao,” cô đáp. “Tôi ổn rồi.”

Anh ta gật đầu, nhưng có vẻ ngập ngừng. Cô nhìn anh rời khỏi nhà bếp. Cô nhắm mắt lại, thầm nghĩ: Mình tuyệt đối không thể báo tin cho Mattie.

Cô đã hình dung được chuyện sẽ diễn ra như thế nào. Cô sẽ mở cửa phòng Mattie, trên tường có poster của Less Than Jake và cảnh trượt tuyết mạo hiểm ở Colorado. Trên sàn nhà là quần áo lộn trái mặc từ hai, ba ngày trước. Dụng cụ thể thao của Mattie dựng ở góc phòng - ván và gậy trượt tuyết, gậy khúc côn cầu và gậy bóng vợt. Bảng thông tin dán đầy tranh hoạt hình và ảnh của bạn bè: Taylor, Alyssa, và Kara, những cô bé mười lăm tuổi cột tóc đuôi ngựa và những lọn tóc dài lòa xòa trước mặt. Mattie sẽ cuộn mình dưới lớp chăn màu xanh-trắng, giả vờ không nghe thấy gì cho đến khi Kathryn gọi tên nó lần thứ ba. Sau đó Mattie sẽ ngồi bật dậy, thoạt tiên cáu kỉnh vì bị đánh thức, nghĩ rằng đã đến giờ đi học và tự hỏi Kathryn vào phòng nó làm gì. Mái tóc hung với những cọng óng ánh như kim loại của con bé xõa dài trên vai chiếc áo thun tím in dòng chữ màu trắng “Ely Lacrosse” vắt ngang bộ ngực nhỏ nhắn. Nó sẽ chống tay ra sau lên tấm đệm để ngồi dậy.

“Chuyện gì vậy mẹ?” nó sẽ hỏi.

Như thế.

“Chuyện gì vậy mẹ?”

Và rồi một lần nữa, giọng nó rít lên the thé.

“Mẹ, có chuyện gì?”

Và Kathryn sẽ phải quỳ xuống cạnh giường và phải nói với con gái về chuyện đã xảy ra.

“Không, mẹ ơi!” Mattie sẽ khóc.

“Không! Mẹ ơi!”

***

Khi Kathryn mở mắt, cô nghe tiếng rì rầm từ tivi.

Cô rời khỏi ghế trong nhà bếp để đi vào phòng khách phía trước, phòng khách có sáu cặp cửa sổ dài từ trần đến sàn, nhìn ra bãi cỏ và hồ nước. Có một cây thông Giáng sinh ở góc phòng khiến cô dừng lại tại cửa. Robert Hart đang ngồi trên sofa, chồm về trước, trên tivi, một ông lão đang trả lời phỏng vấn. Cô đã bỏ lỡ phần đầu của bản tin. Đó là đài CNN hoặc CBS. Robert nhìn nhanh sang cô.

“Cô có chắc là cô muốn xem tin này không?” anh ta hỏi.

“Làm ơn đi,” cô đáp. “Tôi muốn xem mà.”

Cô bước vào phòng, tiến gần hơn đến tivi.

Ở chỗ của ông lão đang có mưa, một lúc sau họ đăng địa danh nơi đó lên phía dưới màn hình. Malin Head, Ireland. Cô không hình dung nổi nó nằm ở đâu trên bản đồ. Cô thậm chí không biết nó nằm ở vùng nào ở Ireland. Nước mưa nhỏ xuống từ gò má ông lão, dưới hai mắt ông là hai bọng mắt dài trắng mốc. Máy quay di chuyển, ghi hình cây cối ở một ngôi làng, phía trước là mặt tiền những tòa nhà trắng tinh. Nằm giữa dãy nhà là một khách sạn trông rất buồn thảm, cô đọc tên khách sạn trên mái che mỏng tang: Khách sạn Malin. Những người đàn ông đang túm tụm ở lối vào, tay cầm tách trà hoặc cà phê, e dè đưa mắt nhìn đoàn quay phim. Máy quay lướt về phía ông lão rồi phóng to cận cảnh khuôn mặt ông. Mắt ông lộ vẻ hoảng hốt, miệng ông há hốc, như ông đang bị khó thở. Kathryn nhìn ông lão trên tivi, và cô nghĩ: Bây giờ trông mình cũng hệt như thế. Mặt xám ngoét. Mắt nhìn trừng trừng vào một thứ gì đấy không hiện hữu. Miệng há ra như cá mắc câu.

Người phỏng vấn, một phụ nữ tóc đen che ô đen, bảo ông lão mô tả lại cảnh tượng ông đã chứng kiến.

Có ánh trăng trên mặt nước tối đen, ông lão nói đứt quãng.

Giọng ông lão khàn khàn, phát âm nặng đến nỗi họ phải in phụ đề những gì ông nói ở phía dưới màn hình.

Có những mảnh màu bạc rơi từ trên trời xuống khắp con tàu, ông lão kể.

Những mảnh đó phấp phới giống như

Chim.

Những con chim bị thương.

Rơi xuống.

Xoắn ốc, giống như vậy, và xoay vòng vòng.

Cô bước đến tivi rồi quỳ gối xuống thảm, mặt cô ngang với mặt ông lão trên màn hình. Lão ngư đang vẫy tay loạn xạ để minh họa lời nói của mình. Ông tạo một hình chóp rồi di chuyển ngón tay lên xuống, sau đó vẽ một cạnh răng cưa. Ông kể với người phỏng vấn rằng thực chất không có mảnh vỡ kỳ lạ nào rơi xuống tàu của ông. Khi ông điều khiển con tàu đến những nơi mà các vật ấy đã rơi xuống, thì chúng đã biến mất hoặc chìm xuống biển, ông không vớt kịp, kể cả dùng đến lưới cũng không được.

Nhìn vào ống kính, nữ phóng viên nói tên của ông lão là Eamon Gilley. Ông đã tám mươi ba tuổi, và là nhân chứng đầu tiên lên tiếng. Hình như không có ai khác chứng kiến những gì lão ngư đã thấy, và chưa có điều gì được xác thực. Kathryn có cảm tưởng như cô phóng viên rất muốn chuyện lão Gilley kể là thật nhưng buộc phải nói rằng nó có thể không chính xác.

Nhưng Kathryn biết chuyện đó là thật. Cô có thể nhìn thấy ánh trăng trên biển, rúm ró và lóng lánh, những tia sáng bạc rơi xuống từ trên trời, rơi rơi, rơi rơi, như những thiên thần tí hon giáng trần. Cô có thể nhìn thấy con tàu nhỏ trên biển và ông lão đánh cá đứng ở mũi tàu - mặt hướng về phía trăng, hai tay vươn ra trước. Cô có thể nhìn thấy ông lão loạng choạng, liều lĩnh bắt lấy những mảnh phấp phới, chọc tay vào không khí như một đứa trẻ đuổi bắt đom đóm trong đêm mùa hè. Và lúc ấy cô nghĩ thật kỳ lạ làm sao, thảm họa này - loại thảm họa rút cạn máu trong cơ thể, hút sạch không khí trong phổi và đấm túi bụi vào mặt ta - lại có thể là một điều rất đẹp.

***

Robert chồm người về trước để tắt tivi.

“Cô không sao chứ?” anh ta hỏi.

“Anh nói nó xảy ra khi nào?”

Anh chống cùi chỏ lên đầu gối và nắm tay lại.

“Một giờ năm mươi bảy. Giờ ở đây. Bên đấy là sáu giờ năm mươi bảy.”

Có một vết sẹo phía trên lông mày phải của anh ta. Cô nghĩ anh khoảng gần bốn mươi tuổi, gần tuổi của cô hơn là của Jack. Anh có làn da trắng của người tóc vàng và mắt nâu, đồng tử có những vân màu đỏ nhạt. Mắt của Jack màu xanh dương, hai màu xanh khác nhau - một mắt màu xanh bạc, gần như trong suốt, như màu xanh da trời; mắt kia rất sáng, màu xanh dương đậm. Màu mắt khác lạ thu hút mọi ánh nhìn về phía Jack, khiến người ta săm soi gương mặt anh, tựa như tính không đối xứng này gợi đến sự mất cân bằng, hoặc một điều gì đó bất ổn.

Cô thầm hỏi: Đây là nghề của người này sao?

“Đó là thời điểm của lần phát tín hiệu cuối cùng,” nhân viên của Liên đoàn nói với giọng nhỏ đến nỗi cô không nghe rõ.

“Lần phát tín hiệu cuối cùng là gì?” cô hỏi.

“Đó là quy trình.”

Cô không tin nổi anh ta. Có quy trình gì gọi là lần phát tín hiệu cuối cùng chứ?

“Anh có biết,” cô hỏi, “những từ cuối cùng mà phi công thường hay nói nhất khi biết máy bay sắp rơi không? À mà tất nhiên là anh biết rồi.”

“Cô Lyons,” anh ta nói, quay sang cô.

“Gọi tôi là Kathryn được rồi.”

“Cô vẫn còn đang sốc. Cô nên uống thứ gì đó có chất đường. Ở nhà có nước hoa quả không?”

“Trong tủ lạnh ấy. Là bom, phải không?”

“Giá mà tôi biết nhiều hơn để nói với cô.”

Anh ta đứng dậy đi vào nhà bếp. Cô nhận ra mình không muốn ở lại một mình trong phòng, vì vậy cô đi theo anh. Cô nhìn đồng hồ ở bồn rửa. 3 giờ 38 phút. Có lẽ nào kể từ lúc cô nhìn đồng hồ ở chiếc tủ đầu giường trên lầu đến giờ, chỉ mới mười bốn phút trôi qua?

“Anh đến đây nhanh thật đấy,” cô nói, ngồi lên chiếc ghế trong nhà bếp.

Anh ta rót nước cam vào cốc.

“Anh làm sao làm được như vậy?” cô hỏi.

“Chúng tôi có máy bay,” anh ta khẽ đáp.

“Không. Ý tôi là, hãy cho tôi biết. Anh làm việc này thế nào? Anh có một chiếc máy bay đợi sẵn à? Anh cứ ngồi nhởn nhơ để đợi một vụ rơi máy bay xảy ra à?”

Anh ta đưa cốc nước cam cho cô. Anh tựa vào bồn rửa rồi dùng ngón giữa bàn tay phải vuốt dọc trán, từ sống mũi đến đường chân tóc. Trông như lúc ấy anh đang ra quyết định, đang phán xét.

“Không, tôi không ngồi nhởn nhơ chờ đợi một vụ rơi máy bay. Nhưng nếu có một vụ xảy ra, chúng tôi đã có sẵn một quy trình. Chúng tôi có một chiếc máy bay phản lực Lear ở sân bay Washington National. Nó chở tôi đến sân bay lớn gần nhất. Lần này là Portsmouth.”

“Rồi sau đó?”

“Rồi sau đó có một chiếc xe đợi sẵn.”

“Và anh làm thế trong...”

Cô tính toán thời gian cần để anh ta bay từ Washington, nơi đặt trụ sở Liên đoàn, đến Ely, New Hampshire, vừa qua khỏi vùng giáp với Massachusetts.

“Chừng hơn một giờ đồng hồ,” anh ta đáp.

“Nhưng tại sao?” cô hỏi.

“Để đến đây trước tiên,” anh đáp. “Để báo tin cho cô. Để giúp cô vượt qua chuyện này.”

“Đó không phải là lý do,” cô nói nhanh.

Anh ta nghĩ ngợi một lúc.

“Nó là một phần lý do,” anh nói.

Cô vuốt tay lên mặt bàn gỗ thông nứt nẻ. Vào những đêm Jack ở nhà, Jack cùng cô và Mattie dường như chỉ sống trong phạm vi bán kính ba mét quanh chiếc bàn đó - đọc báo, nghe tin tức, nấu nướng, ăn uống, dọn dẹp, làm bài tập, và rồi, sau khi Mattie đi ngủ, họ nói chuyện hoặc không, và thỉnh thoảng, nếu Jack không phải đi làm, thì uống một chai rượu vang. Lúc đầu, khi Mattie còn nhỏ và đi ngủ sớm, họ thỉnh thoảng lại thắp nến và làm tình trong nhà bếp, do cô hoặc anh bất chợt thấy rạo rực.

Cô nghiêng đầu về sau và nhắm mắt lại. Cơn đau như đang kéo dài từ bụng lên đến cuống họng. Cô cảm thấy bấn loạn, như đang đứng quá gần bờ vực. Cô hít vào thật mạnh, đến nỗi Robert phải nhìn sang cô.

Và rồi cô chuyển từ sốc sang đau đớn, như chuyển từ phòng này sang phòng khác.

Những hình ảnh tấn công cô. Cảm giác hơi thở của Jack trên đốt sống cổ, như anh đang thì thầm với những khúc xương của cô. Nụ hôn phớt lên môi khi anh chuẩn bị rời khỏi nhà. Vòng tay ôm Mattie sau trận khúc côn cầu trên cỏ cuối cùng của con bé, khi Mattie nhễ nhại mồ hôi và khóc nức nở vì đội của nó thua 8-0. Làn da trắng nhợt ở mặt trong cánh tay của Jack. Lớp da bị sẹo rỗ nhẹ giữa hai bả vai, di chứng của tuổi dậy thì. Sự mềm mại khác người của bàn chân anh, cả chuyện anh không thể đi bộ trên bãi biển mà không mang giày. Sự ấm áp của anh, cả trong những đêm lạnh nhất, như lò sưởi trong người anh lúc nào cũng bừng bừng rực cháy. Những hình ảnh ấy xô đẩy, chen lấn nhau, giành giật chỗ đứng với nhau một cách thô bạo. Cô cố gắng ngưng chúng lại, nhưng không thể.

Người đàn ông từ Liên đoàn đứng ở bồn rửa quan sát cô. Anh ta đứng bất động.

“Tôi yêu anh ấy,” cô lên tiếng khi đã có thể mở lời.

Cô đứng dậy, rút một tờ khăn giấy từ hộp. Cô hỉ mũi. Cô cảm thấy một cơn căng thẳng bộc phát. Cô tự hỏi liệu thời gian có đang mở ra và bao bọc rồi nuốt chửng lấy cô - trong một ngày hoặc một tuần hoặc một tháng, hoặc có thể là vĩnh viễn.

“Tôi biết,” Robert nói.

“Anh lập gia đình chưa?” cô hỏi và lại ngồi xuống.

Anh ta đút tay vào túi quần rồi xóc những đồng xu trong túi. Anh đang mặc quần tây màu xám. Jack hiếm khi mặc quần tây. Như nhiều nam giới mặc đồng phục đi làm, anh chưa bao giờ ăn mặc chải chuốt.

“Tôi li dị rồi.”

“Anh có con không?”

“Hai cháu trai. Chín và sáu tuổi.”

“Chúng có sống với anh không?”

“Với vợ tôi ở Alexandria. Vợ cũ.”

“Anh có thường gặp chúng không?”

“Tôi cũng cố gắng.”

“Sao anh lại li dị?”

“Tôi không còn uống rượu nữa.”

Anh ta nói ra điều này như đó là sự thật hiển nhiên, không giải thích gì thêm. Cô không biết liệu mình có hiểu hay không. Cô lại hỉ mũi.

“Tôi phải gọi điện đến trường,” cô nói. “Tôi là giáo viên.”

“Việc đó làm sau cũng được. Mà cũng chẳng có ai ở đó đâu. Giờ này chưa ai dậy cả.” Anh ta nhìn đồng hồ.

“Kể cho tôi nghe về công việc của anh đi.”

“Cũng chẳng có gì nhiều để kể. Chủ yếu là làm quan hệ công chúng thôi.”

“Anh đã phải làm những việc này bao nhiêu lần rồi?”

“Việc gì?”

“Tai nạn. Tai nạn máy bay.”

Anh ta im lặng một lúc.

“Năm,” cuối cùng anh nói. “Năm vụ nghiêm trọng.”

“Năm à?”

“Và bốn vụ nhỏ hơn.”

“Hãy kể cho tôi nghe xem nào.”

Anh liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Ba mươi giây trôi qua. Có lẽ là một phút. Một lần nữa cô lại cảm thấy anh đang đưa ra những phán quyết, quyết định.

“Có một lần tôi đến nhà của một góa phụ, và phát hiện cô ta đang ngủ với người đàn ông khác.”

“Ở đâu?”

“Westport. Connecticut.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Người vợ mặc áo choàng ngủ ra mở cửa, và tôi báo tin cho cô ấy, sau đó người đàn ông mặc quần áo vào và đi xuống. Ông ta là hàng xóm. Sau đó ông ta và tôi đứng trong nhà bếp của người vợ và nhìn cô ấy ngất xỉu. Vụ đó phức tạp lắm.”

“Anh có biết anh ấy không?” Kathryn hỏi. “Chồng tôi ấy?”

“Không. Tôi rất tiếc.”

“Anh ấy lớn tuổi hơn anh.”

“Tôi biết.”

“Họ còn kể gì với anh nữa?”

“Làm ở Vision mười một năm. Trước đó làm ở Santa Fe năm năm. Trước đó nữa thì ở Teterboro hai năm. Hai năm ở Việt Nam, máy bay chiến đấu DC-3. Quê quán ở Boston. Cao đẳng Holy Cross. Một con gái, mười lăm tuổi. Một vợ.”

Anh ta nghĩ ngợi một lúc.

“Cao. Một mét chín mươi lăm? Khỏe mạnh.”

Cô gật đầu.

“Thành tích tốt. Thật ra là xuất sắc.”

Anh ta gãi mu bàn tay bằng tay kia.

“Tôi rất tiếc. Tôi rất tiếc vì tôi biết tất cả những thông tin này về chồng cô nhưng lại không biết gì về anh ấy.”

“Họ có nói gì với anh về tôi không?”

“Chỉ nói là cô trẻ hơn chồng mười lăm tuổi. Và cô sẽ có mặt ở đây với con gái.”

Cô săm soi bàn chân mình, đôi chân nhỏ nhắn và trắng trẻo, như không còn giọt máu nào. Gót chân không sạch.

“Có bao nhiêu người trên máy bay?” cô hỏi.

“Một trăm lẻ bốn.”

“Không đầy.”

“Phải, không đầy.”

“Có người sống sót không?”

“Họ đang tìm kiếm...”

Đến lượt những hình ảnh khác xâm nhập. Khoảnh khắc biết trước - biết trước điều gì - trong buồng lái? Tay của Jack đặt trên cần điều khiển. Một thân người xoay vòng trong không trung. Không. Đấy không phải là một thân người. Cô lắc mạnh đầu.

“Tôi phải đích thân báo cho con bé,” cô nói.

Anh ta gật đầu rất nhanh, như điều đó đã được nhất trí từ trước.

“Không. Ý tôi là anh phải rời khỏi đây. Tôi không muốn ai chứng kiến hoặc nghe thấy chuyện này.”

“Tôi sẽ ngồi trong xe.”

Cô cởi áo khoác mà anh ta cho mượn. Điện thoại lại reo, nhưng không ai di chuyển. Từ xa, họ nghe tiếng máy trả lời tự động bật lên.

Cô chưa chuẩn bị tâm lý để nghe tiếng của Jack, trầm ấm và thân thương, âm hưởng Boston trong các nguyên âm, với lời chào quen thuộc. Cô úp mặt vào hai tay và đợi lời chào kết thúc.

Khi ngước lên, cô thấy Robert đang nhìn cô chăm chú. Anh ta nhìn lảng đi nơi khác.

“Mục đích là để ngăn tôi nói chuyện với báo chí, phải không?” cô hỏi. “Vì vậy mà anh mới đến đây.”

Một chiếc xe rẽ vào đường mòn và phanh lại trên nền sỏi. Người đàn ông từ Liên đoàn nhìn ra cửa sổ, cầm lấy áo khoác, rồi mặc lên.

“Là để tôi không phát ngôn gì khiến họ nghĩ đến lỗi của phi công,” cô nói tiếp. “Các anh không muốn họ nghĩ đến lỗi của phi công.”

Anh ta nhấc ống nghe điện thoại lên và đặt nó xuống quầy bếp.

Gần đây, Jack và cô ít khi làm tình trong nhà bếp. Họ bảo nhau rằng bây giờ Mattie đã lớn và có thể xuống nhà bếp tìm thức ăn vặt. Nhiều đêm, sau khi Mattie đã đi lên phòng để nghe nhạc hoặc buôn điện thoại với bạn bè, họ chỉ ngồi ở bàn để đọc tạp chí, quá mệt đến nỗi chẳng buồn dọn dẹp bát đĩa hay thậm chí nói chuyện với nhau.

“Tôi đi nói với con đây,” cô nói.

Anh ta ngập ngừng:

“Cô cũng hiểu là chúng tôi không thể ở ngoài đấy quá lâu.”

“Họ là người của hãng hàng không, phải không?” cô nhìn qua cửa sổ nhà bếp. Ở đường mòn vào nhà, cô chỉ nhận ra hai bóng người rời khỏi một chiếc xe. Cô đi đến chân cầu thang.

Cô nhìn lên cầu thang. Có năm trăm bậc, ít nhất là năm trăm bậc. Chúng kéo dài đến vô tận. Cô nhận ra một điều gì đó đã chuyển động và giờ đây đang bắt đầu. Cô không chắc mình có đủ sức để đi lên đến đỉnh cầu thang.

Cô nhìn người đàn ông từ Liên đoàn, bấy giờ đang đi từ nhà bếp ra mở cửa.

“Mẹ,” cô nói, khi anh ta quay lại. “Từ mà họ thường nói là Mẹ.”