Chương 1

Tháng Hai năm 1823.

Gloucestershire, Anh Quốc.

Mỉa mai làm sao, thật thế, chuyện ấy đã xảy ra vào một ngày đầy nắng.

Ngày nắng đầu tiên trong, gì nhỉ – sáu tuần bầu trời xám xịt liên tục, đi cùng là những đợt tuyết nhẹ rơi rải rác, hay thỉnh thoảng là lác đác cơn mưa? Ngay cả khi Phillip, nghĩ rằng chính bản thân anh trơ ra trước thói đỏng đảnh thất thường của thời tiết, đã cảm thấy tinh thần thư thái hơn, và nụ cười trở nên tươi rói. Anh đã đi ra ngoài – anh phải thế. Không ai có thể ở lại trong nhà suốt một ngày nắng rực rỡ huy hoàng đến vậy.

Đặc biệt là giữa một mùa đông xám ngoét.

Ngay cả bây giờ, hơn một tháng sau ngày hôm ấy, anh không thể nào tin được mặt trời lại có thể táo bạo trêu chọc anh lần nữa.

Và làm sao anh có thể mù quáng trông mong vào việc ấy? Anh đã sống với Marina từ lúc họ kết hôn. Tám năm dài ròng rã để biết về một người phụ nữ. Anh nên mong đợi mới phải. Và sự thật…

Chà, sự thật là, anh đã mong đợi nó. Anh chỉ không muốn thú nhận niềm trông mong. Có lẽ anh chỉ đang cố lừa dối bản thân, thậm chí tự bảo vệ chính anh. Để ẩn giấu khỏi sự hiển nhiên, hy vọng là nếu anh không nghĩ, nó sẽ không bao giờ xảy ra.

Nhưng chuyện đó đã xảy ra. Và vào một ngày đầy nắng. Chúa hẳn phải có một khả năng hài hước chán ghét.

Anh cúi xuống nhìn ly whiskey, chẳng hiểu sao, đã cạn sạch. Anh chắc phải nốc cái thứ chết dẫm này, vậy nhưng anh không có bất kỳ ký ức nào về việc làm đó. Anh không cảm thấy chuếnh choáng, ít nhất không chuếnh choáng như anh nên phải thế. Hay không chuếnh choáng như anh muốn.

Anh chằm chằm nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi mặt trời ở phía chân mây. Đây phải là một ngày ngập tràn ánh nắng khác. Đó dường như giải thích được tâm trạng ngoại lệ ủ ê của anh. Ít nhất anh hy vọng thế. Anh muốn một lời giải thích, cần một sự cắt nghĩa, cho sự chán chường tồi tệ dường như đang tiếp nối. Sự sầu muộn làm kinh hãi anh.

Hơn bất cứ thứ gì khác. Hơn cả lửa, hơn cả chiến tranh, hơn cả bản thân địa ngục. Ý nghĩ sẽ nhúng chìm trong buồn bã, của việc giống như cô…

Marina đã luôn luôn sầu muộn. Marina đã dành cả quãng đời cô, hay ít nhất cả quãng đời anh biết, sầu muộn. Anh không thể nhớ âm thanh tiếng cười cô, và sự thật là, anh không chắc anh có bao giờ biết nó.

Đây là một ngày đầy nắng, và – anh nhắm chặt mắt lại, dù không chắc cử chỉ ấy có nghĩa thúc giục ký ức hay xua nó đi. Đó là một ngày đầy nắng, và…



“Không bao giờ mày cảm thấy da mày giống như thế này lần nữa sao, hả, Ngài Phillip?”

Phillip Crane quay về phía mặt trời, khép mắt lại khi để sự ấm áp trải ra trên da anh. “Thật hoàn hảo.” Anh lầm bầm. “Hay nó sẽ như thế, nếu không lạnh đến chết được.”

Miles Carter, thư kí của anh, tặc lưỡi. “Không lạnh đến thế đâu. Mặt hồ không đóng băng năm nay. Chỉ có vài chỗ loang lổ.”

Miễn cưỡng, Phillip quay ra khỏi ánh nắng và mở mắt. “Dù vậy, đây không phải mùa xuân.”

“Nếu ngài đang mong ước mùa xuân, thưa ngài, có lẽ ngài nên xem lịch thì hơn.”

Phillip lườm xéo cậu ta. “Tôi trả lương cho cậu vì sự xấc láo này?”

“Thật thế. Và cũng vì tôi khá đẹp trai nữa.”

Phillip tự mỉm cười với bản thân, khi cả hai người đàn ông dừng lại để tận hưởng ánh nắng trong một lúc lâu.

“Tôi nghĩ ngài không bận tâm đến vẻ xám xịt.” Miles trò chuyện, khi họ tiếp tục di chuyển đến nhà kính của Phillip.

“Đúng vậy.” Phillip nói, sải bước tiến về phía trước với vẻ tự tin của một vận động viên bẩm sinh. “Nhưng chỉ bởi vì tôi không phiền về bầu trời đầy mây, không có nghĩa là tôi không thích mặt trời.” Anh dừng lại, suy nghĩ trong một thoáng. “Hãy đảm bảo là nói với bảo mẫu Millsby dẫn bọn trẻ ra ngoài vào hôm nay. Chúng sẽ cần những chiếc áo choàng ấm áp, dĩ nhiên thế, và những chiếc mũ, găng tay, cùng những thứ tương tự, nhưng chúng cần nhận một tý ánh nắng mặt trời. Chúng đã bị giam chân quá lâu rồi.”

“Tất cả chúng ta đều thế.” Miles lẩm bẩm.

Phillip tặc lưỡi. “Thật vậy.” Anh liếc qua vai về phía nhà kính. Anh lẽ ra phải nên xem xét đến thư từ bây giờ, nhưng anh có vài hạt giống cần phân loại, và thực lòng, không có lý do gì anh không thể hướng dẫn công việc của mình với Miles chỉ trong một giờ hay cỡ đó. “Đi tiếp đi.” Anh nói với Miles. “Tìm bảo mẫu Millsby. Cậu và tôi có thể bàn chuyện sau. Dù sao cậu cũng biết là cậu ghét nhà kính.”

“Không phải mùa này trong năm.” Miles nói. “Sức nóng thật đáng được chào đón.”

Phillip cong một bên mày khi anh nghiêng đầu về phía Romney Hall. “Cậu đang gọi căn nhà tổ tiên của tôi là đầy gió lùa?”

“Tất cả những căn nhà do tổ tiên để lại đều đầy gió lùa.”

“Vừa đúng.” Phillip nói với một nụ cười toe toét. Anh khá thích Miles. Anh đã thuê cậu ấy sáu tháng trước, để giúp đỡ một núi công việc giấy tờ cùng cả đống chi tiết, mà có vẻ như chất chồng từ việc điều hành gia sản nho nhỏ của anh. Miles khá tuyệt vời. Trẻ tuổi, nhưng giỏi giang. Và tính hài hước tỉnh khô của cậu ấy hoàn toàn được chào đón ở đây, nơi tiếng cười chẳng bao giờ dư dả. Những người hầu sẽ không bao giờ dám đùa giỡn với Phillip, và Marina… à thì, chẳng cần nói ra việc Marina không bao giờ cười đùa hay trêu ghẹo.

Lũ trẻ đôi khi khiến Phillip bật cười, nhưng đó là một kiểu hài hước khác, và hơn nữa, phần lớn thời gian anh không biết phải nói gì với chúng. Anh đã cố, nhưng rồi anh cảm thấy quá ngại ngùng, quá to lớn, quá mạnh mẽ, để một việc như thế có thể xảy ra. Và rồi anh chỉ thấy chính mình xuỵt chúng đi, nói rằng chúng hãy trở lại với bà bảo mẫu.

Đó là cách dễ dàng hơn.

“Vậy, đi đi.” Phillip nói, đưa cho Miles một yêu cầu mà anh lẽ ra nên tự mình làm. Anh đã không thấy con anh hôm nay, và anh tin rằng anh nên thế, nhưng anh không muốn phá hủy một ngày bằng cách nói gì đó nghiêm khắc, điều mà anh chắc chắn sẽ làm.

Anh sẽ tìm chúng khi chúng đi dạo với bảo mẫu Millsby. Đó là một ý hay. Sau đó anh có thể hướng sự chú ý của chúng tới vài loại cây và nói về nó, và mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản, hoàn hảo và tốt lành.

Phillip bước vào nhà kính và đóng cửa lại sau anh, hít vào một hơi chào đón. Anh đã học về thực vật học ở Cambridge, đứng đầu lớp, và sự thật, anh đã có thể tiếp tục quãng đời học tập của mình, nếu anh trai anh không qua đời ở Waterloo, đẩy đứa con thứ là Phillip đây vào vai trò của một địa chủ và một quý ngài dân dã.

Anh cho là nó có thể tệ hơn. Cuối cùng, anh có thể trở thành một người địa chủ và một quý ngài thành thị. Ít nhất, anh có thể đeo đuổi nghề nghiệp về những loài thực vật của mình trong sự thanh thản thích hợp.

Anh cong người qua chiếc bàn thợ mộc của mình, kiểm tra công trình mới nhất – những hạt đậu mơn mởn mà anh đang cố gây giống, để chúng trở nên mập mạp và căng phồng hơn trong vỏ. Lô mới nhất này không chỉ nhăn nhúm lại, mà thậm chí còn biến thành màu vàng, sau cùng không phải là một kết quả được trông đợi.

Phillip cau mày, rồi cho phép bản thân anh khẽ mỉm cười khi di chuyển đến góc nhà kính, để tập hợp những nguồn dự trữ lại. Anh chưa bao giờ quá kinh hãi bận lòng, khi những cuộc thử nghiệm của anh không đạt được như mong muốn. Theo ý kiến anh, cái khó bao giờ cũng ló cái khôn.

Những sự rủi ro. Tất cả là về những rủi ro. Không một nhà khoa học nào sẽ thừa nhận nó, dĩ nhiên, nhưng phần lớn các phát minh vĩ đại chợt lóe lên, trong khi một người đang cố gắng giải quyết một vấn đề hoàn toàn khác.

Anh cười lặng lẽ khi đặt những hạt đậu nhăn nhúm lại sang một bên. Với tỷ lệ này, anh sẽ chữa khỏi cho chúng vào cuối năm.

Trở lại công việc. Trở lại công việc. Anh chồm qua bộ sưu tập hạt giống của anh, dàn nhẹ chúng ra để anh có thể kiểm tra tất cả. Anh chỉ cần một hạt bên phải cho–

Anh ngước lên và nhìn qua tấm kính mới được rửa sạch. Một sự chuyển động qua khu đất đập vào mắt anh. Một ánh chớp đỏ.

Đỏ. Phillip tự mỉm cười với bản thân khi anh lắc đầu. Đó phải là Marina. Đỏ là màu yêu thích của cô, cái gì đó khiến anh luôn cảm thấy kỳ lạ. Bất cứ ai trải qua bất kỳ thời gian nào với cô, sẽ chắc chắn nghĩ rằng cô ưa thích một sắc màu tối hơn, ảm đạm hơn.

Anh quan sát cô biến mất vào trong những bụi cây nhỏ, rồi trở lại với công việc. Hiếm khi Marina mạo hiểm ra ngoài. Những ngày này cô không thường rời khỏi nơi giam cầm trong phòng ngủ. Phillip sung sướng khi thấy cô ngoài ánh nắng mặt trời. Có thể nó sẽ hồi phục lại tinh thần cô. Không hoàn toàn, tất nhiên thế. Phillip thậm chí không nghĩ ánh nắng có khả năng làm việc đó. Nhưng có thể một ngày tươi sáng, ấm áp sẽ đủ kéo cô ra ngoài vài giờ, mang lại một nụ cười bé nhỏ trên gương mặt cô.

Chúa biết bọn trẻ có thể cần điều ấy. Chúng thăm mẹ hầu hết ở trong phòng vào mỗi buổi sáng, nhưng thế vẫn chưa đủ.

Và Phillip biết thiếu hụt ấy anh không thể bù đắp được.

Anh thở dài, một cơn sóng tội lỗi dâng lên. Anh không phải là người cha chúng cần, anh biết điều đó. Anh cố tự nói với bản thân anh đang cố hết sức, rằng anh đang tiến tới thành công trong những mục đích duy nhất của đời anh là làm một bậc cha mẹ tốt – rằng anh không cư xử như cha anh.

Nhưng dù vậy, anh biết thế vẫn chưa đủ.

Với những dáng điệu kiên quyết, anh tự đẩy bản thân ra khỏi chiếc bàn thợ mộc của mình. Những giống cây có thể đợi. Các con anh cũng có thể đợi, nhưng không có nghĩa là chúng cần thế. Và anh nên để chúng lại với buổi đi dạo, không phải bảo mẫu Millsby, người không biết một một cành rụng từ một cây tùng bách, và gần như sẽ chắc nói với chúng rằng hoa hồng là hoa cúc, và…

Anh liếc qua ngoài cửa sổ lần nữa, tự nhắc bản thân bây giờ đang là tháng Hai. Bảo mẫu Millsby không giống như định vị được bất cứ loại hoa nào trong thời tiết thế này, nhưng dù sao, điều ấy không phải là cái cớ cho việc anh nên để cho bọn trẻ đi dạo. Đấy là một trong những hoạt động của trẻ con mà anh thực sự nổi trội, và anh không nên né tránh trách nhiệm.

Anh sải bước ra khỏi nhà kính, nhưng rồi dừng hẳn, khi chưa đến một phần ba đường trở lại Romney Hall. Nếu anh làm bọn trẻ vui thích, anh nên để chúng gặp mẹ. Chúng khát khao ở bên cô, dù ngay cả khi cô không làm gì hơn là vỗ vỗ vào đầu chúng. Phải, chúng sẽ tìm Marina. Điều đó thậm chí nghe có ích hơn là một buổi đi dạo ngoài trời.

Nhưng từ kinh nghiệm của mình, anh biết không nên để tâm trạng Marina dính vào việc ấy. Chỉ bởi vì cô liều lĩnh ra ngoài, không có nghĩa là cô cảm thấy tốt. Và anh ghét việc để bọn trẻ thấy cô trong tâm trạng ủ ê.

Phillip quay lại và hướng về phía bụi cây, nơi Marina biết mất vài lúc trước. Anh đi nhanh gấp hai lần so với Marina, nên không lâu nữa sẽ bắt kịp cô, và xác định được tâm trạng cô bây giờ. Anh có thể trở lại chỗ phòng bọn trẻ, trước khi anh để chúng bắt đầu lên đường với bảo mẫu Millsby.

Anh đi xuyên qua những bụi cây, dễ dàng theo dấu vết của Marina. Mặt đất ẩm ướt, và Marina hẳn đã mang đôi bốt nặng nề, vì dấu chân cô in trên mặt đất khá rõ ràng. Chúng dẫn xuống con đường dốc và ra khỏi những bụi cây, sau đó là trên con đường đầy cỏ.

“Chết tiệt.” Phillip lầm bầm, âm thanh chỉ vừa đủ để nghe thấy khi cơn gió thổi qua anh. Không thể nào thấy được dấu chân cô trên cỏ. Anh dùng tay để che cho khỏi chói, và lướt mắt về phía xa, tìm kiếm một dấu hiệu đỏ chỉ dẫn.

Không ở gần chòi nhà tranh bỏ hoang, không ở cánh đồng nơi Phillip dùng cho những cuộc thử nghiệm giống cây, không ở tảng đá lớn Phillip đã trải qua nhiều giờ leo trèo thuở anh còn nhỏ. Anh quay về phía bắc, đôi mắt nheo lại khi cuối cùng đã thấy cô. Cô đang thẳng hướng đến mặt hồ.

Mặt hồ.

Môi Phillip há ra khi anh chăm chăm nhìn vào dáng cô, di chuyển chậm rại đến mép nước. Anh hoàn toàn đông cứng; thật ra thì anh còn hơn cả thế, anh… đờ ra… khi tâm trí anh nhá lên một tia sáng lạ lùng. Marina không biết bơi. Anh thậm chí không biết nếu cô có thể. Anh cho là cô vừa nhận thức được có một cái hồ ở khu đất đó, anh chưa lần nào thấy cô đến đó, chưa một lần trong tám năm trời họ lấy nhau. Anh bắt đầu bước về phía cô, bằng cách nào đó, những bước chân anh chấp nhận điều mà tâm trí anh từ chối. Khi cô bước xuống dòng nước cạn, anh bắt đầu tăng tốc, dù vẫn còn quá xa để làm bất cứ việc gì ngoài thét gọi tên cô.

Nhưng nếu cô nghe thấy anh, cô chẳng biểu lộ gì, vẫn tiếp tục những bước đi chậm rãi và vững vàng ra sâu hơn.

“Marina!” Anh thét gọi, bắt đầu chạy thục mạng. Anh vẫn còn cách khoảng một lúc ngắn nữa, thậm chí là với vận tốc tối đa của anh. “Marina!”

Cô tới nơi đáy hồ tụt xuống, và cô cũng hụt chân mất dạng, biến mất dưới mặt nước xám não lòng, chiếc áo choàng đỏ nơi cô trôi bập bềnh trên mặt nước vài giây, trước khi cùng cô mất hút.

Anh thét gọi tên cô lần nữa, dù cô không thể nghe. Anh phanh lại và ngã nhào xuống con dốc dẫn đến mặt hồ, rồi tâm trí anh chỉ kịp nhận ra việc anh giật mạnh áo choàng và đôi bốt, trước khi lặn xuống dòng nước lạnh lẽo giá băng. Cô chìm chưa tới một phút; tâm trí anh nhận ra chắc chắn chừng ấy thời gian không đủ để làm cô chết đuối, nhưng cứ mỗi giây trôi qua cho việc tìm kiếm cô, sẽ là thêm một giây nữa dẫn cô đến cái chết.

Anh đã bơi lội trong hồ nhiều lần không đếm hết, biết chính xác nơi đáy sâu, và anh với tới nơi mấu chốt ấy một cách nhanh chóng, chỉ vừa vặn chú ý đến những trang phục nặng nề của anh bị dòng nước ngáng đường.

Anh có thể tìm thấy cô. Anh phải tìm thấy cô.

Trước khi quá trễ.

Anh lặn xuống, lướt mắt qua dòng nước tối mù. Marina hẳn phải đá tung vào vài đụn cát dưới đáy hồ, và anh chắc chắn đã làm điều tương tự, vì cát xoay vần xung quanh anh, những đám cát mờ đục quấy tung lên, khiến việc nhìn thấy trở nên khó khăn.

Nhưng cuối cùng, Marina được cứu bởi một thói quen về màu sắc sặc sỡ của cô. Khi Phillip xuyên qua dòng nước, xuống dưới tận đáy, nơi anh trông thấy màu đỏ của áo choàng cô trôi nổi như một con diều uể oải. Cô không chống lại khi anh lôi cô lên; quả thật vậy, cô đã mất tỉnh táo, và không khác gì một cơ thể như đã chết nặng nề trong tay anh.

Họ trồi lên mặt nước, và anh hổn hển thở dữ dội để lắp đầy khí vào hai lá phổi đang rát bỏng. Trong một thoáng, anh không thể làm gì khác hơn ngoài việc hít thở, cơ thể anh nhận ra phải cứu chính mình trước khi có thể cứu ai khác. Rồi anh đỡ cô, cẩn thận để gương mặt cô trên mặt nước, dù cô không có vẻ gì là đang thở.

Cuối cùng, khi họ đi đến mép hồ, anh kéo cô lên chỗ chật hẹp dơ bẩn nằm giữa dòng nước và bãi cỏ. Anh điên cuồng di chuyển tay kiểm tra xem cô còn thở không, nhưng chẳng có tí dấu hiệu hơi thở nào từ môi cô.

Anh không biết phải làm gì, chưa từng nghĩ đến việc phải cứu ai đó khỏi chết đuối, nên anh chỉ đơn giản làm những gì hợp lý nhất, đỡ cô vào lòng anh, mặt úp xuống, và vỗ mạnh vào lưng cô. Lúc đầu chẳng có gì xảy ra, nhưng sau lần vỗ đầy mạnh bạo vào lần thứ tư, cô ho sặc sụa, rồi sặc ra một dòng nước đen lòm.

Anh nhanh chóng quay cô lại. “Marina?” Anh vội vã hỏi, nhẹ vỗ vào mặt cô. “Marina?”

Cô ho lần nữa, cả cơ thể cô chấn động bởi những cơn rùng mình liên tục. Rồi cô bắt đầu thở hộc tốc, hai lá phổi buộc cô phải sống, thậm chí ngay cả khi tâm trí cô khát khao một điều gì khác.

“Marina.” Phillip nói, giọng nhẹ nhõm. “Cám ơn Chúa.” Anh không yêu cô, đã chẳng bao giờ thực sự yêu cô, nhưng cô là vợ anh, là mẹ các con anh, và trong tận nơi sâu thẳm bên dưới cái vẻ ngoài sầu thảm và tuyệt vọng khủng khiếp kia, cô là một người tốt bụng, tử tế. Anh có thể không yêu cô, nhưng anh không muốn cô chết.

Cô chớp mắt, trông không tập trung. Và rồi, cuối cùng, cô như nhận ra cô đang ở đâu, anh là ai, và cô thì thào. “Không.”

“Anh đến đưa em về nhà.” Anh cộc cằn nói, giật mình trước từng chữ đầy giận dữ.

Không.

Sao cô dám chối bỏ sự giúp đỡ của anh? Có phải cô từ bỏ cuộc sống này chỉ vì buồn bã? Sự u sầu của cô phải chăng sẽ nhiều hơn của các con? Trong cuộc sống đầy bấp bênh, có phải, tâm trạng đớn đau sẽ quan trọng hơn việc chúng cần một người mẹ?

“Anh đưa em về nhà.” Anh quạu quọ, nhấc cô vào vòng tay anh chẳng chút nhẹ nhàng. Giờ cô đã thở, và rõ ràng đang suy nghĩ, có thể lạc lối trong cái mớ hỗn độn ấy cũng nên. Không có gì cần thiết để đối xử với cô như một bông hoa mảnh khảnh.

“Không.” Cô lặng lẽ khóc. “Làm ơn đừng làm thế. Em không muốn… Em không…”

“Em sẽ về nhà.” Anh lên tiếng, lê bước lên ngọn đồi, lờ đi cơn gió lạnh buốt biến bộ đồ ướt đẫm của anh thành băng; thậm chí lờ đi cả những cục đất cứng như đá đè dưới đôi chân trần anh.

“Em không thể.” Cô thì thầm, như đó là những gì năng lượng ít ỏi của cô còn sót lại.

Và khi Phillip nặng nhọc bế cô về nhà, tất cả những gì anh có thể nghĩ là, làm sao những lời như ấy lại đúng đắn đến thế.

Em không thể.

Bằng cách đó, nó như tổng kết cả cuộc đời cô.

Lúc chập tối, mọi việc trở nên rõ ràng rằng cơn cảm cúm có thể thành công, thay cho tất bại nơi mặt hồ.

Phillip đã bế Marina về nhà nhanh nhất anh có thể, và, với sự giúp sức của Bà Hurley, quản gia của anh, đã thay những bộ quần áo lạnh ngắt ra khỏi cô, cố gắng làm cô ấm lên dưới tấm chăn đã là một phần của những món đồ tư trang mà cô mang về nhà chồng tám năm trước.

"Chuyện gì đã xảy ra?" Bà Hurley thở dốc, khi anh sải bước qua cánh cửa nhà bếp. Anh đã không muốn dùng cửa chính, nơi có thể bị các con trông thấy, và bên cạnh đó, cánh cửa nhà bếp gần hơn tới hai mươi mét.

"Cô ấy ngã xuống hồ." Anh thô lỗ nói.

Bà Hurley không hiểu bằng cách nào nhìn anh vừa có vẻ nghi ngờ, vừa có vẻ cảm thông cùng một lúc, và anh biết bà ấy biết sự thật. Bà đã làm việc cho gia đình nhà Crane từ đám cưới của họ, bà biết tâm trạng của Marina.

Bà xua anh ra khỏi phòng khi họ đã đặt Marina lên giường, nhấn mạnh rằng anh cần thay quần áo của chính anh, trước khi anh cũng bị cái chết chộp lấy. Dù vậy, anh vẫn quay lại bên cạnh Marina. Đó là vị trí của anh khi là chồng cô, anh tội lỗi nghĩ, vị trí mà anh đã lẩn tránh trong suốt những năm gần đây.

Thật là chán nản khi bên cạnh Marina. Rất khó khăn.

Nhưng bây giờ không phải là lúc để lẩn tránh trách nhiệm, vậy nên anh ngồi cạnh cô suốt cả ngày lẫn đêm. Anh lau trán cô khi cô bắt đầu đổ mồ hôi, cố gắng để thờ ơ giúp cô uống nước khi cô tỉnh táo.

Anh nói với cô phải chiến đấu, ngay cả khi anh biết những lời nói của anh trôi tuột ra khỏi tai cô.

Ba ngày sau cô qua đời.

Đó là những gì cô muốn, nhưng chỉ có chút an ủi khi Phillip đối mặt với con anh, hai đứa sinh đôi, chỉ vừa mới bước qua tuổi lên bảy, và cố gắng giải thích mẹ chúng đã mất. Anh ngồi trong phòng riêng của chúng, thân hình to lớn của anh thật quá khổ so với bất kỳ chiếc ghế với kích cỡ bé tẹo trong phòng. Nhưng dù vậy anh vẫn ngồi xuống, vặn vẹo, và bắt chính anh nhìn vào cái nhìn chú tâm nơi chúng khi những lời ấy được phát ra.

Bọn trẻ nói ít thôi, chẳng giống chúng tí nào. Nhưng chúng trông không có vẻ gì là ngạc nhiên, khiến Phillip lo lắng.

"Cha – cha xin lỗi." Anh lên tiếng, khi kết thúc những gì cần phải nói. Anh yêu các con rất nhiều, và có anh thôi là một thiếu hụt với chúng. Anh chỉ biết vừa đủ làm thế nào để trở thành một người cha; làm thế quái nào anh có thể đảm đương cả vai trò của một người mẹ?

"Đó không phải lỗi của cha." Oliver nói, đôi mắt nâu của thằng bé đầy bối rối. "Mẹ ngã xuống hồ mà, phải không? Đâu phải cha đẩy mẹ."

Phillip chỉ gật đầu, không chắc phải trả lời ra sao.

"Bây giờ mẹ có hạnh phúc không?" Amanda nhẹ nhàng hỏi.

"Cha nghĩ là có." Phillip nói. "Mẹ sẽ có thể quan sát suốt quãng thời gian còn lại của các con trên thiên đường, nên mẹ phải hạnh phúc."

Hai đứa sinh đôi trông có vẻ ngẫm nghĩ về những lời ấy trong một lúc. "Con hy vọng mẹ hạnh phúc." Cuối cùng Oliver nói, giọng thằng bé cương quyết hơn vẻ ngoài. "Có lẽ mẹ sẽ không khóc nữa."

Phillip cảm thấy hơi thở nghẹn lại trong họng anh. Anh đã không nhận ra bọn trẻ nghe được những lần Marina khóc. Cô chỉ ngập trong nước mắt, khóc rất nhỏ vào buổi đêm muộn, và phòng chúng ngay trên phòng cô, nhưng anh luôn chắc rằng hai đứa nhỏ đã ngủ khi mẹ chúng bắt đầu khóc lóc.

Amada gật đầu đồng ý, mái tóc vàng óng của con bé lắc lư theo nhịp. "Nếu giờ mẹ hạnh phúc," con bé nói, "thì con mừng là mẹ đã đi."

"Mẹ không đi." Oliver xen ngang. "Mẹ đã chết."

"Không, mẹ đi xa." Amanda khăng khăng.

"Như nhau cả thôi." Phillip thẳng thừng nói, ước chi anh có gì để nói với chúng hơn sự thật. "Nhưng cha nghĩ hiện tại mẹ hạnh phúc."

Và bằng cách nào đó, điều ấy cũng là sự thật. Sau cùng, đó là những gì Marina đã muốn. Có lẽ đó là tất cả những gì cô đã muốn trong suốt quãng thời gian dài.

Amanda và Oliver im lặng trong một lúc lâu, cả hai đều dán mắt xuống nền nhà khi chân chúng đu đưa đá trên giường Oliver. Trông chúng quá nhỏ bé, ngồi đấy trên cái giường rõ ràng là quá cao. Phillip cau mày. Sao anh lại chưa bao giờ chú ý đến việc ấy trước kia. Không phải chúng nên ngủ trên những chiếc giường thấp hơn? Chuyện gì xảy ra nếu chúng ngã khỏi giường vào đêm tối?

Hay có lẽ chúng đã lớn cho tất cả những việc đó. Có lẽ chúng đã không còn ngã khỏi giường nữa. Có lẽ chưa bao giờ chúng như thế.

Có thể anh thật sự là một người cha tồi tệ. Có thể anh nên biết những thứ ấy.

Có lẽ... có lẽ... Anh nhắm mắt lại và thở dài. Có lẽ anh nên dừng suy nghĩ nhiều vào những thứ như thế, và đơn giản cố gắng hết sức rồi sống hạnh phúc với nó.

"Cha sẽ đi sao?" Amanda hỏi, ngẩng đầu lên.

Anh nhìn vào đôi mắt con, quá đỗi xanh, xanh như màu mắt Marina. "Không." Anh thì thầm quả quyết, khụy xuống và nắm lấy đôi bàn tay tý hon. Đôi bàn tay ấy quá nhỏ bé, thật mỏng manh trong bàn tay anh.

"Không." Anh nhắc lại. "Cha sẽ không đi đâu. Cha sẽ không bao giờ đi đâu..."

...

Phillip nhìn xuống ly whiskey của mình. Nó lại trống rỗng lần nữa. Buồn cười làm sao một ly whiskey lại có thể vơi đi, ngay cả sau khi nó đã được đổ đầy bốn lần trước.

Anh ghét việc hồi tưởng. Anh không chắc cái gì là tệ nhất. Là lúc anh ngập lặn dưới dòng nước, hay thời khắc lúc Bà Hurley quay sang anh và nói. "Có phải bà ấy đã ra đi?"

Hay đó là các con anh, sự đau đớn trên gương mặt, nỗi sợ hãi trong mắt chúng?

Anh nâng ly rượu lên môi, để những giọt cuối cùng chảy vào miệng. Phần tệ nhất chắc chắn là hai đứa con anh. Anh đã nói anh sẽ không bao giờ rời bỏ chúng, và anh không làm vậy – sẽ không làm vậy – nhưng sự hiện diện của anh đơn giản là không đủ. Chúng cần nhiều hơn nữa. Chúng cần ai đó biết cách làm thế nào để trở thành một bậc cha mẹ, ai đó biết cách làm thế nào để nói chuyện với chúng, biết thấu hiểu và dạy chúng xử sự, nghĩ suy.

Và vì anh không thể cho chúng một người cha khác, anh cho là anh nên nghĩ đến việc tìm cho chúng một người mẹ. Dĩ nhiên, như thế này là quá sớm. Anh không thể cưới bất kỳ ai, cho đến khi thời kỳ để tang hợp pháp hoàn tất, nhưng điều đó không có nghĩa là anh không thể tìm kiếm.

Anh thở dài, lún sâu vào chỗ ngồi. Anh cần một người vợ. Gần như có thể là bất cứ người vợ nào. Anh chẳng để tâm cô trông ra sao. Anh cóc quan tâm nếu cô có tiền của. Anh không thèm bận tâm nếu cô có thể tính nhẩm trong đầu, hay nói tiếng Pháp, hoặc thậm chí có thể cưỡi ngựa.

Chỉ cần cô đơn giản là hạnh phúc.

Chừng ấy có quá nhiều cho việc mong muốn một người vợ? Một nụ cười, ít nhất một lần một ngày. Có lẽ thậm chí chỉ âm thanh tiếng cười cô?

Và cô phải yêu thương các con anh. Hay ít nhất giả vờ yêu thương tốt đến mức, chúng không nhận ra sự khác biệt.

Chừng ấy đâu là quá nhiều, phải không?

"Ngài Phillip?"

Phillip ngẩng lên nhìn, tự nguyền rủa bản thân vì đã để cánh cửa phòng làm việc khép hờ. Miles Carter, thư ký của anh, đang thò đầu vào.

"Chuyện gì vậy?"

"Một lá thư, thưa ngài." Miles nói, bước tới trước và đưa cho anh lá thư. "Từ London."

Phillip nhìn xuống lá thư trong tay anh, đôi mày nhướng lên trước nét chữ nghiêng nghiêng rõ ràng đầy nữ tính. Anh đuổi Miles đi với một cái gật đầu, rồi cầm lá thư lên và mở nó ra khỏi lớp sáp ong. Một mảnh giấy rơi ra. Phillip nắm chặt nó giữa những ngón tay. Tờ giấy thượng hạng. Mắc tiền. Cũng nặng nữa, một dấu hiệu rõ ràng người gửi không cần tiết kiệm để giảm giá bưu phí.

Rồi anh quay lá thư lại và đọc:

Số 5, đường Bruton.

London

Ngài Phillip Crane,

Tôi viết thư này để biểu lộ lời chia buồn trước sự ra đi của vợ ngài, người chị họ Marina yêu quý của tôi. Tuy đã nhiều năm kể từ lần cuối tôi gặp Marina, tôi vẫn còn nhớ vẻ trìu mến của chị và đau buồn sâu sắc trước sự ra đi ấy.

Xin đừng ngần ngại hồi âm, nếu có bất cứ thứ gì tôi có thể làm được để xoa dịu nỗi đau trong thời điểm khó khăn này.

Kính thư,

Quý cô Eloise Bridgerton.

Phillip chà mắt. Bridgerton... Bridgerton... Marina có những người họ hàng với Bridgerton? Cô hẳn phải thế, nếu một người trong số họ gửi cho anh một lá thư.

Anh thở dài, rồi ngạc nhiên với chính bản thân khi với qua đống đồ trên bàn và lấy cây viết lông ngỗng. Anh gần như không nhận được lời chia buồn nào kể từ khi Marina mất. Có lẽ phần lớn bạn bè và gia đình đã lãng quên cô, từ sau đám cưới của họ. Anh cho là anh không nên ngạc nhiên, hay thậm chí ngạc nhiên. Cô hiếm khi rời khỏi phòng; thật quá dễ dàng để ai đó quên lãng một người không bao giờ họ trông thấy.

Cô Bridgerton xứng đáng với một bức thư hồi âm. Đó là cử chỉ lịch sự thông thường, hay ngay cả khi không phải thế (và Phillip khá chắc anh không biết đầy đủ các phép tắc xã giao về việc mất vợ của một người xa lạ), bằng cách nào đó, đây vẫn có vẻ như là điều đúng đắn cần làm.

Vậy nên, với hơi thở mỏi mệt, anh đặt cây bút lông ngỗng xuống tờ giấy.

Tháng Năm năm 1824.

Nơi nào đó trên đường từ London

đến Gloucestershire.

Nửa đêm.

Cô Bridgerton thân mến,

Cám ơn sự lưu ý tử tế nơi cô trước sự qua đời của vợ tôi. Cô thật là chu đáo khi bỏ thời gian để viết cho một quý ông chưa từng gặp mặt. Tôi tặng cô bông hoa được ép khô này như một lời cám ơn. Nó không là gì cả ngoài loài hoa Campion với màu đỏ giản đơn, nhưng tỏa sáng rực rỡ trên cánh đồng nơi Gloucestershire, và thật sự có vẻ như nở sớm vào năm nay. Đây là loài hoa dại yêu thích của Marina.

Thân,

Ngài Phillip Crane.

Eloise Bridgerton vuốt mảnh giấy trong lòng bàn tay. Chỉ có chút ánh sáng để có thể trông thấy những con chữ, dù cho là với ánh sáng của mặt trăng tròn vành vạnh, đang len lỏi qua những khung cửa sổ xe ngựa, nhưng việc ấy chẳng là vấn đề. Cô đã nhớ cả nội dung bức thư, và cả bông hoa ép thanh nhã, thực sự là có màu hồng nhiều hơn màu đỏ, đang được an toàn bảo vệ kẹp giữa những trang sách trong thư viện của anh trai cô.

Cô đã không ngạc nhiên chết khiếp khi nhận được một bức thư hồi âm từ Ngài Phillip. Những cách cư xử lịch thiệp thể hiện được rất nhiều, thậm chí ngay cả khi mẹ Eloise, rõ ràng là thẩm phán tối cao của những hành vi chuẩn mực, nói rằng Eloise quan tâm quá mức nghiêm túc tới những quan hệ thư từ cô có.

Điều ấy là thông thường thôi, dĩ nhiên, với vị trí của Eloise khi dành nhiều giờ trong mỗi tuần cho việc viết các bức thư, nhưng Eloise đã mắc kẹt rất lâu vào thói quen trò chuyện mỗi ngày. Cô tận hưởng việc viết những ghi chép, đặc biệt là với những ai cô chưa gặp mặt trong nhiều năm (cô luôn thích tưởng tượng vẻ ngạc nhiên của họ khi mở thư cô), và vì vậy cô đặt bút xuống giấy cho hầu hết bất cứ sự kiện nào – những ngày chúc mừng sinh nở, những ngày buồn đau qua đời mất mát, bất cứ ngày nào có thể cần những lời chúc mừng hay chia sẻ.

Cô không chắc tại sao cô lại tiếp tục gửi những lá thư ấy, chỉ là cô đã dành nhiều thời gian viết những lá thư cho bất kỳ những anh chị em ruột nào của mình không cùng ở London, và có vẻ như khá dễ dàng để viết một lá thư nhỏ cho vài người họ hàng ở xa, khi cô ngồi tại bàn viết của mình.

Và dù cho tất cả mọi người đều viết lại một lá thư hồi âm ngắn – cô mang họ Bridgerton, đương nhiên, và không ai muốn xúc phạm một người Bridgerton – chưa bao giờ có ai gửi kèm một món quà, dù cho là thứ gì đó khiêm tốn như một bông hoa ép khô nhỏ.

Eloise nhắm mắt, hình dung ra những cánh hoa màu hồng mảnh khảnh. Thật khó để tưởng tượng một người đàn ông chăm sóc một thứ như bông hoa dễ vỡ. Cả bốn anh em trai của cô đều to lớn, những con người khỏe mạnh, với đôi vai rộng và hai bàn tay to lớn, chắc chắn là sẽ bóp nát những thứ tội nghiệp ngay tức khắc.

Cô thích thú trước lá thư trả lời của Ngài Phillip, đặc biệt là cách anh sử dụng tiếng Latin, và cô ngay lập tức đặt bút xuống viết một lá thư trả lời khác.

Thân gửi Ngài Phillip,

Cám ơn ngài rất nhiều vì bông hoa ép khô vô cùng quyến rũ. Thật là một ngạc nhiên đáng yêu khi nó được đặt trên bức thư. Và cũng là một kỷ niệm quý báu với Marina yêu dấu.

Tôi không thể không chú ý đến sự trôi chảy của ngài với tên khoa học của loài hoa. Có phải, ngài là một nhà thực vật học?

Kính thư,

Quý cô Eloise Bridgerton.

Có lẽ không được minh bạch khi cô kết thúc lá thư với một câu hỏi. Giờ người đàn ông tội nghiệp bị buộc phải trả lời lần nữa.

Anh không làm cô thất vọng. Chỉ mất mười ngày cho Eloise nhận thư trả lời của anh.

Cô Bridgerton thân mến,

Tôi quả thật là một nhà thực vật học, được đào tạo tại Cambridge, dù hiện thời tôi không chuyển tiếp lên bất kỳ trường chuyên sâu hay ủy ban khoa học nào. Tôi quản lý những cuộc thí nghiệm tại Romeny Hall này, trong khu nhà kính của chính tôi. Có phải cô cũng có sở thích về khoa học?

Kính thư,

Ngài Phillip Crane.

Có gì đó xúc động với những lá thư; có lẽ đơn giản là do sự hấp dẫn tìm hiểu một người không liên hệ với cô, người thực sự có vẻ như háo hức trò chuyện trong một cuộc đối thoại được viết ra. Bất kể đó là gì, Eloise ngay lập tức trả lời.

Thân gửi Ngài Phillip,

Chúa ơi, không, tôi không có trí óc của một nhà khoa học, tôi e là thế, dù tôi có khả năng tính toán hơn những cô gái với mái đầu vàng hoe. Những sở thích của tôi dựa vào những thứ nhân văn hơn nhiều; ngài có thể chú ý rằng tôi yêu thích viết thư.

Bạn ngài,

Eloise Bridgerton.

Eloise không chắc về việc ký tên với một lời chào thân mật như thế, nhưng cô quyết định phạm vào ranh giới táo bạo đó. Ngài Phillip rõ ràng thích thú với những lá thư nhiều như cô; nếu không thì, chắc anh đã không kết thúc kết thúc bức thư cũng với một câu hỏi?

Câu trả lời của cô đến vào hai tuần sau.

Cô Bridgerton thân mến của tôi,

À, nhưng đây đâu phải là một loại tình bạn chứ, phải không? Tôi phải thú nhận sự hoàn toàn cách ly tại nơi thôn quê này, và nếu một người không thể mỉm cười với người khác trên bàn ăn sáng, thì họ ít nhất có thể có một lá thư đáng yêu. Cô có đồng ý không?

Tôi gửi kèm cho cô một bông hoa khác. Lần này là hoa Phong lữ Pratense, thường được biết đến như cây mỏ hạc đồng cỏ.

Với lời chúc tốt đẹp nhất,

Phillip Crane.

Eloise nhớ ngày đó rất rõ. Cô đã ngồi trên chiếc ghế gần nơi cửa sổ phòng, và lom lom nhìn vào bông hoa màu tím được ép khô cẩn thận, như một vật bất tử. Anh có phải đang ve vãn cô? Qua lá thư ấy?

Và rồi một ngày, cô nhận được một lá thư hoàn toàn khác với những thư trước.

Cô Bridgerton thân mến của tôi,

Giờ chúng ta đã qua lại thư từ với nhau được một khoảng thời gian, và dù chúng ta chưa một lần gặp gỡ chính thức, tôi cảm giác như đã biết cô. Hy vọng cô cũng cảm thấy giống thế.

Tha lỗi cho tôi nếu tôi quá trơ trẽn, nhưng tôi viết thư này để mời cô đến đây thăm tôi tại Romney Hall. Đó là hy vọng nơi tôi, sau một khoảng thời gian thích hợp, chúng ta có thể quyết định hai ta có thể hợp nhau, và cô sẽ ưng thuận làm vợ tôi.

Cô sẽ, tất nhiên, hoàn toàn có người đi kèm. Nếu cô chấp nhận lời mời của tôi, tôi sẽ ngay tức khắc lập kế hoạch để đưa người dì góa của tôi đến Romney Hall.

Tôi hy vọng cô sẽ cân nhắc về lời đề nghị của tôi.

Kính thư, như thường lệ,

Phillip Crane.

Eloise liền giấu ngay bức thư vào ngăn kéo, thậm chí không thể tìm hiểu lời thỉnh cầu của anh. Anh muốn cưới một người mà anh không hề biết?

Không, thực lòng mà nói, điều ấy không hoàn toàn đúng. Họ biết nhau. Họ đã trò chuyện với nhau trong suốt quãng thời gian thư từ một năm, nhiều hơn nhiều người chồng và vợ trò chuyện với nhau trong suốt quãng thời gian một cuộc hôn nhân.

Nhưng dù vậy, họ chưa bao giờ gặp nhau.

Eloise nghĩ về tất cả những lời cầu hôn cô từ chối trong những năm qua. Khoảng bao nhiêu nhỉ? Ít nhất là sáu. Bây giờ cô thậm chí không thể nhớ được tại sao cô lại từ chối vài người trong số họ. Không lý do, thực sự thế, ngoại trừ việc họ không…

Hoàn hảo.

Như thế có phải là hy vọng quá nhiều?

Cô lắc đầu, nhận ra cô mới có vẻ ngốc nghếch và hư hỏng làm sao. Không, cô không cần ai đó hoàn hảo. Cô chỉ cần ai đó hoàn hảo cho cô.

Cô biết những mệnh phụ xã hội nói gì về cô. Cô quá đòi hỏi, tệ hơn cả một đứa ngốc. Cô sẽ kết thúc cuộc đời như một bà cô già – không, họ không còn nói thế nữa. Họ nói cô đã là một bà cô già, điều hoàn toàn đúng. Một người không thể bước tới ngưỡng cửa hai mươi tám mà không nghe về những lời xì xầm như thế sau lưng.

Hay quẳng nó vào mặt ai đó.

Nhưng nực cười là, Eloise không bận tâm đến tình huống của cô. Hay ít nhất, không cho đến gần đây.

Trong cô chưa bao giờ lóe lên ý nghĩ sẽ mãi là một bà cô già, và hơn nữa, cô tận hưởng cuộc sống của mình. Cô có một gia đình tuyệt diệu nhất mà một người có thể tưởng tượng ra – tất cả bảy anh chị em, được đặt tên theo thứ tự alphabe, và cô được đặt ngay giữa với mẫu tự E, với bốn anh chị lớn hơn cùng ba người em nhỏ tuổi. Mẹ cô là một người vui tính, và bà thậm chí không dừng cằn nhằn việc kết hôn của Eloise. Eloise vẫn còn chiếm một chỗ nổi bật trong giới; và những người nhà Bridgerton khiến mọi người ngưỡng mộ cũng như kính trọng (đôi khi cả sợ hãi), và vẻ tỏa sáng cùng tính tình thẳng thắn của Eloise là thứ mà tất cả tìm kiếm từ sự bầu bạn của cô, dù có ở tuổi gái già hay không.

Nhưng sau đó…

Cô thở dài, bỗng nhiên cảm thấy có già hơn đôi chút so với cái tuổi hai mươi tám. Sau đó cô không còn cảm thấy tươi vui nữa. Sau đó cô bắt đầu nghĩ, có lẽ những bà mệnh phụ quái gở đã đúng, và cô không tìm cho bản thân một người chồng nữa. Có lẽ cô đã quá kén cá chọn canh, quá kiên quyết đi theo hình ảnh của những anh trai và chị em gái, tất cả đều đã tìm thấy một tình yêu sâu đậm, thiết tha với người bạn đời (dù tình cảm ấy không nhất thiết có ngay từ lúc bắt đầu).

Có thể một cuộc hôn nhân dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và tình bạn thì tốt hơn là chẳng có gì.

Nhưng thật khó khăn để chuyện trò với bất kỳ ai về những cảm xúc ấy. Mẹ cô đã dành quá nhiều thời gian hối thúc cô tìm một người chồng; nhiều cũng như Eloise yêu thương bà, thật chẳng dễ gì để tranh luận và nói rằng bà sẽ lắng nghe. Các anh trai cô sẽ chẳng có được tý giúp ích nào. Anthony, anh cả, chắc chắn sẽ giải quyết việc này bằng cách tự chọn lấy một người phù hợp, rồi dọa nạt anh chàng tội nghiệp khuất phục. Benedict là một người quá mơ mộng hão huyền, và hơn nữa, anh ấy đã không còn xuống London, mà thay vào đó là tận hưởng vẻ yên tĩnh nơi thôn quê. Và với Colin – thì chà, đó hoàn toàn là một câu chuyện khác, một tin tức khá xứng đáng.

Cô cho là cô nên trò chuyện với Daphne, nhưng cứ mỗi lần đến gặp chị mình, người chị lớn nhất của cô trông hạnh phúc chết đi được, quá đỗi sung sướng tột cùng trong tình yêu với chồng, và cuộc đời làm mẹ của bốn đứa con. Làm sao một người như thế có thể đưa ra lời khuyên hữu ích cho ai đó ở vào vị trí của Eloise? Và Francesca có vẻ cách xa cả nửa vòng trái đất, ở tận nơi Scotland. Hơn nữa, Eloise không nghĩ sẽ công bằng khi làm phiền em gái với những phiền muộn ngốc nghếch của cô. Vì Chúa, Francesca đã là góa phụ ở tuổi hai mươi ba. Những sợ hãi và lo lắng của Eloise sẽ chỉ là những so sánh tầm thường khủng khiếp.

Và có lẽ tất cả những việc ấy là lý do tại sao mối quan hệ thư từ của cô với Ngài Phillip, đã trở thành một niềm vui tội lỗi. Bridgerton là một gia đình lớn, ồn ào và náo nhiệt. Gần như không thể giữ kín bất kỳ bí mật nào, đặc biệt là khỏi cô em gái nhỏ nhất – Hyacinth – người có thể chiến thắng cả Napoleon chỉ trong nửa hiệp, nếu Hoàng đế chỉ cần nghĩ tới việc lôi con bé vào hoạt động do thám.

Ngài Phillip, bằng cách lạ lùng, là của cô. Thứ duy nhất cô chưa bao giờ chia sẻ với bất kỳ ai. Những lá thư anh gửi được bó lại và cột chặt với sợi dây ruy băng tím, giấu dưới đáy nơi ngăn kéo giữa bàn cô, kẹp dưới chồng đồ dùng cô dùng để viết nhiều lá thư khác.

Anh là bí mật của cô. Của cô.

Và vì cô chưa bao giờ thực sự gặp gỡ anh, cô chỉ có thể tạo ra anh trong tâm trí, dùng những lá thư như những khung xương, rồi bổ sung thêm chi tiết cô thấy phù hợp. Nếu có bao giờ có một người hoàn hảo, đó chắc hẳn là Ngài Phillip Crane trong trí tưởng tượng nơi cô.

Và bây giờ anh muốn họ gặp nhau? Gặp nhau? Và hủy hoại những gì có thể trở thành mối quan hệ tìm hiểu hoàn hảo này?

Nhưng rồi chuyện không tưởng đã xảy ra. Penelope Featherington, bạn thân nhất của Eloise trong gần mười hai năm, đã kết hôn. Và hơn thế nữa, cô ấy cưới Colin. Anh trai Eloise!

Nếu mặt trăng mà có đột ngột rớt khỏi bầu trời, và lăn xuống sau vườn nhà cô, Eloise cũng không thể ngạc nhiên hơn nữa.

Eloise vui mừng cho Penelope. Cô thật sự thế. Và cô cũng mừng vui cho cả Colin nữa. Họ chắc chắn là hai người yêu thích nhất của cô trong toàn bộ thế giới này, và cô rùng mình xúc động rằng họ đã tìm thấy hạnh phúc. Không ai mong muốn điều gì hơn.

Nhưng không có nghĩa là hôn nhân của họ đã không để lại một sự trống rỗng trong đời cô.

Cô tin rằng khi cô nghĩ về đời mình như một bà cô già, và cố thuyết phục bản thân đó là những gì cô thực sự muốn, thì Penelope đã luôn trong hình ảnh tưởng tượng, là gái già ngay bên cạnh cô. Việc ấy có thể chấp nhận được – dù vậy, gần như liều lĩnh khi – hai mươi tám tuổi và không kết hôn, miễn là Penelope cũng hai mươi tám tuổi và không kết hôn. Cô đã muốn Penelope tìm được một người chồng; chỉ là điều ấy ít nhất chưa bao giờ giống thế. Eloise biết Penelope thật tuyệt vời, thông minh, tử tế và hài hước, nhưng những quý ông của giới thượng lưu chẳng bao giờ chú ý đến. Trong suốt bao năm ròng rã của cô ấy nơi xã hội – cả thảy mười một năm – Penelope không nhận được một lời cầu hôn nào. Không ngay cả một hứng thú nhỏ nhất.

Nói cách khác, Eloise đã tin tưởng cô ấy sẽ vẫn ở đó, vẫn như thế – đầu tiên và trước nhất, là bạn Eloise. Người bạn cùng là bà cô già với cô.

Và phần tệ nhất – phần bỏ lại cảm giác tội lỗi tan nát trong Eloise – là cô chưa bao giờ một lần nghĩ đến Penelope có thể cảm thấy như thế nào nếu cô kết hôn trước, điều mà, sự thật, cô luôn cho rằng sẽ xảy ra.

Nhưng giờ đây Penelope có Colin, và Eloise có thể thấy sự kết hợp ấy là một điều tuyệt diệu. Và cô lẻ loi. Đơn độc giữa đám đông London, giữa một gia đình rộng lớn đầy yêu thương.

Thật khó để tưởng tượng vị trí cho một người bơ vơ.

Đột nhiên Ngài Phillip táo bạo cầu hôn – bức thư được giấu kín ở sâu sâu trong một cái bọc, ở sâu sâu trong ngăn kéo chính giữa, quay khỏi một cái hộp an toàn mới tinh vừa được mua, chỉ có thế Eloise mới không bị cám dỗ lôi nó ra nhìn sáu lần một ngày – à thì, nó có vẻ nhiều hơn suy nghĩ một tý.

Cô suy nghĩ hơn vào từng ngày, thẳng thắn mà nói, cô thao thức nhiều hơn, bất mãn hơn với phần lớn cuộc sống – cô phải thú nhận – là mình đã chọn.

Vậy nên vào một ngày, sau khi cô đến thăm Penelope, chỉ để được người quản gia thông báo là Bà Bridgerton không thể tiếp những người khách (dứt khoát theo kiểu cách mà Eloise biết nó có nghĩa gì), cô đã có một quyết định. Đây là lúc để tự kiểm soát cuộc đời cô, là lúc để điều khiển số phận, hơn là tham dự hết dạ vũ hội này, dạ vũ hội khác và dạ vũ hội khác nữa, trong hy vọng hão huyền một người đàn ông hoàn hảo sẽ thình lình xuất hiện trước mắt, mà không bận tâm chẳng có bất kỳ ai mới ở London, và sau cả đầy một thập kỷ ra mắt nơi xã hội, cô đã gặp tất cả mọi người trong độ tuổi phù hợp để tiến tới hôn nhân.

Cô tự nói với chính bản thân mình, điều ấy không có nghĩa cô phải cưới ngài Phillip Crane; cô chỉ kiểm tra những thứ có vẻ giống như có thể trở thành một khả năng tuyệt hảo. Nếu không hợp nhau, họ không cần phải lấy nhau; sau cùng, cô đã không hứa hẹn gì với anh cả.

Nhưng nếu có một điều về Eloise, đó là một khi cô đã quyết định, cô hành động rất nhanh. Không, cô ngẫm nghĩ một cách ấn tượng (theo ý cô, ít nhất thế) thành thật với bản thân, có hai điều tô điểm cho mỗi hành động của cô – cô thích hành động nhanh chóng và ngoan cố. Penelope đã một lần miêu tả cô na ná như con cún đeo đuổi cục xương.

Và Penelope không phải đang đùa.

Một khi Eloise quặp móng vuốt vào một ý tưởng nào đó, thì ngay cả toàn bộ lực lượng của nhà Bridgerton cũng không thể lôi cô ra khỏi mục đích dự kiến của mình. (Và gia đình Bridgerton là một lực lượng vĩ đại, thật thế.) Hầu như chắc chắn chỉ là một may mắn ngớ ngẩn, khi những mục tiêu và những người trong gia đình cô không bao giờ xung khắc với nhau trước đó, ít nhất không vượt quá bất cứ thứ gì quan trọng.

Eloise biết gia đình sẽ không bao giờ tán thành việc cô mù quáng đi gặp một người đàn ông chưa bao giờ giáp mặt. Anthony sẽ chắc chắn yêu cầu Ngài Phillip đến London để gặp mặt toàn thể gia đình đông đảo, và Eloise không thể hình dung ra cảnh tượng chân thật nào hơn, là một người cầu hôn tương lai sẽ bị dọa chết khiếp. Đám đàn ông trước kia cầu hôn cô, ít nhất đã quen thuộc với cảnh tượng London, và biết họ đang dấn thân vô cái gì; Ngài Phillip tội nghiệp, người đã – dựa trên sự thừa nhận trong những lá thư anh – không đặt chân đến London sau những ngày đi học, và không bao giờ tham gia vào mùa lễ hội, sẽ bị mai phục.

Vậy nên lựa chọn duy nhất của cô là đi đến Gloucestershire, và, ngay sau khi cô nhận ra tình huống nặng nề này ít ngày trước, cô phải làm mọi chuyện trong bí mật. Nếu gia đình biết những kế hoạch của cô, cô có thể sẽ bị cấm đi. Eloise là một đối thủ xứng đáng, và cô có thể chiếm ưu thế vào lúc cuối cùng, nhưng đó sẽ là trận chiến dai dẳng, đầy thương vong. Không cần đề cập đến việc nếu họ cho phép cô đi, dù là có sau trận chiến kéo dài vượt quá chủ đề hay không, họ sẽ khăng khăng đòi gửi theo ít nhất hai người cùng đẳng cấp để hộ tống cô.

Eloise rùng mình. Hai người đó gần như chắc mẻm là mẹ cô và Hyacinth.

Hỡi ôi, không ai có thể vướng vào tình yêu với hai kẻ ấy xung quanh. Thậm chí không ai có thể dịu dàng hòa nhã trong việc bị dính chặt như keo, điều mà Eloise nghĩ cô thực sự có thể sẵn sàng giải quyết ổn thỏa cho chuyến đi loanh quanh này.

Cô quyết định sẽ làm một cuộc tẩu thoát trong buổi vũ hội của Daphne, chị gái cô. Đó là một việc vĩ đại, khi với cả một bầy khách khứa và với hàng đống tiếng ồn cùng sự hỗn loạn theo sau, sự vắng mặt của cô sẽ không bị chú ý trong vòng sáu giờ tốt lành, có lẽ hơn thế. Mẹ cô luôn nhấn mạnh họ phải đúng giờ – thậm chí là sớm hơn – khi một thành viên trong gia đình tổ chức một sự kiện xã hội, nên chắc chắn gia đình sẽ không đến chỗ Daphne muộn hơn tám giờ. Nếu cô lẻn ra ngoài sớm, và vũ hội sẽ không giảm sự náo nhiệt cho đến vài giờ của buổi sáng… chậc, sẽ gần tinh mơ trước khi ai đó có thể nhận ra cô đã đi mất, và cô có thể đã trên nửa đường tới Gloucestershire.

Và nếu không phải là được nửa đường, thì cũng đủ xa để đảm bảo rằng họ sẽ khó khăn kinh khủng để theo dấu vết cô.

Cuối cùng, tất cả đã được chứng minh là cực kỳ dễ xơi. Toàn bộ gia đình cô đã bị sao lãng bởi lời tuyên bố rất quan trọng mà Colin đã lên kế hoạch, và tất cả những gì cô phải làm là xin lỗi để vào phòng nghỉ dành cho các quý bà quý cô, lượn ra phía cuối, rồi đi ngược một quãng ngắn về nhà, nơi cô giấu hành lý của mình ở sân sau. Từ đó, cô chỉ cần đi bộ lại phía góc đường, nơi đã sắp xếp một chiếc xe ngựa đợi sẵn.

Chúa ơi, nếu cô biết sẽ dễ dàng để tự mình tìm đường ra khỏi thế giới, cô đã làm thế cả hàng năm trước rồi.

Và giờ cô đang ở đây, trên cỗ xe ngựa lăn bánh thẳng đến Gloucestershire, lăn bánh thẳng đến định mệnh, cô cho là thế – hay hy vọng, cô không chắc lắm – với không gì hơn ngoài vài bộ phục trang để thay, và một cọc thư được viết cho cô bởi người đàn ông chưa một lần gặp gỡ.

Một người đàn ông cô hy vọng cô có thể yêu.

Thật là ly kỳ làm sao.

Không, thật là kinh hãi.

Đó có lẽ, cô ngẫm nghĩ, là thứ dại dột điên rồ nhất cô đã làm trong cuộc đời, và cô phải thú nhận, cô đã có vài quyết định ngu xuẩn trong ngày.

Hay đó chỉ đơn giản có thể là cơ hội duy nhất cho hạnh phúc.

loise nhăn nhó. Cô đang trở nên hoang tưởng. Đó là một tín hiệu xấu. Cô cần tiếp cận cuộc phiêu lưu này với tất cả thực tế cùng sự tỉnh táo, những thứ mà cô luôn cố gắng dựa vào để đưa ra quyết định. Vẫn còn thời gian để quay trở lại. Thực sự, cô đã biết gì về người đàn ông này? Anh nói khá nhiều trong thời gian một năm qua lại thư từ giữa họ–

Anh ba mươi, lớn hơn cô hai tuổi.

Anh đã theo học ở Cambridge, và theo ngành thực vật học.

Anh đã cưới người chị họ thứ tư Marina của cô, tám năm trước, có nghĩa anh mới hai mươi mốt trong lễ cưới của mình.

Anh có mái tóc nâu.

Anh còn đủ răng cỏ.

Anh là một tòng Nam tước.

Anh sống tại Romney Hall, một công trình vững chắc được xây dựng vào thế kỷ mười tám, gần Tetbury, Gloucestershire.

Anh thích đọc những luận án về khoa học, thơ ca, nhưng không phải tiểu thuyết và chắc chắn không màng đến triết học.

Anh thích mưa.

Anh yêu thích màu xanh lá.

Anh đã chưa bao giờ du lịch ra khỏi nước Anh.

Anh không thích cá.

Eloise đấu tranh với cơn bong bóng cười lo lắng. Anh không thích cá. Đó là những gì cô biết về anh.

“Chắc chắn nghe như một nền tảng cho hôn nhân.” Cô tự lầm bầm với bản thân, cố gắng phớt lờ đi sự hoảng loạn trong giọng.

Và anh biết gì về cô? Điều gì hợp lý dẫn anh đến việc cầu hôn với một người hoàn toàn xa lạ?

Cô cố nhớ lại những gì đã viết trong nhiều lá thư.

Cô hai mươi tám.

Cô có mái tóc nâu (thực ra, là màu hạt dẻ) và đầy đủ răng.

Cô có đôi mắt xám.

Cô đến từ một gia đình lớn và yêu thương.

Anh trai cô là Tử tước.

Cha cô đã qua đời khi cô còn là một đứa trẻ, bởi một vết ong đốt xoàng xĩnh không thể hiểu được.

Cô có khuynh hướng nói rất nhiều. (Lạy Chúa, cô đã thực sự viết về điều ấy?)

Cô thích đọc thơ, tiểu thuyết, nhưng đặc biệt không với những luận án về khoa học, hay không màng đến triết học.

Cô đã từng du lịch đến Scotland, nhưng đó là tất cả.

Cô yêu thích màu tím.

Cô không thích thịt cừu và tuyệt đối ghê tởm món pudding kinh khủng.

Một nụ cười nhẹ hoang mang nữa bật ra khỏi môi cô. Theo lối này, cô nghĩ với chút mỉa mai, cô giống như một món mồi béo bở.

Cô khẽ liếc ra ngoài khung cửa sổ, như thể điều ấy có thể chỉ dẫn họ đang ở đâu trên đường từ London đến Terbury.

Lăn qua hết ngọn đồi xanh này, giống y lăn đến những ngọn đồi xanh khác, chẳng khác gì lăn qua những ngọn đồi xanh tiếp theo, và cô có thể ở Wales, đó là tất cả những gì cô biết.

Cau mày, cô ngước xuống nhìn mảnh giấy trong lòng, và gấp lá thư của Ngài Phillip lại. Để nó vừa vặn vào cái bọc thắt dây tím cô giữ trong vali, rồi cô đặt những ngón tay lên đùi trong một cử chỉ lo lắng.

Cô có lý do để mà lo lắng.

Sau cùng, cô đã rời khỏi nhà và tất cả những gì thân quen.

Cô đang đi được nửa đường kéo dài khắp nước Anh, và không ai biết.

Không ai.

Ngay cả Ngài Phillip.

Vì cô vội vã rời London, cô đã lơ đãng không nói cho anh biết cô sẽ đến. Không phải là cô quên; đúng hơn là, cô phần nào… đặt chuyện ấy qua một bên trước khi mọi việc quá trễ.

Nếu cô nói với anh, cô cần thay đổi kế hoạch. Với cách này, cô vẫn còn cơ hội quay lại vào bất cứ lúc nào. Cô tự nói với chính mình, vì cô thích có những lựa chọn và xem xét, nhưng sự thật, cô đơn giản là hoàn toàn chết khiếp, và cô sợ sẽ đánh mất tất cả dũng cảm.

Hơn nữa, anh là người duy nhất đã yêu cầu gặp gỡ. Anh sẽ hạnh phúc được thấy cô.

Phải thế không?

---o0o---

Phillip đứng dậy khỏi giường, kéo tấm màn cửa ra khỏi phòng ngủ, phát hiện ra một ngày nắng ấm hoàn hảo khác.

Hoàn hảo.

Anh nhẹ bước về phía phòng thay phục trang để tìm quần áo, đã từ lâu kể từ khi cho những người hầu thường thực hiện những loại nhiệm vụ kiểu này thôi việc. Anh không thể giải thích, nhưng sau khi Marina qua đời, anh đã không muốn bất kỳ ai lăng xăng vào phòng ngủ anh buổi sáng, giật mạnh những tấm màn cửa của anh, và chọn trang phục cho anh.

Anh thậm chí cho thôi việc cả Miles Carter, người đã rất cố gắng để trở thành một người bạn, sau khi Marina ra đi. Nhưng không hiểu sao, tên thư ký trẻ tuổi chỉ làm anh cảm thấy tồi tệ hơn, và vì vậy anh gửi cậu ta đi, cùng với sáu tháng lương và một bức thư giới thiệu tuyệt vời.

Anh đã dành cả quãng thời gian trong cuộc hôn nhân với Marina để tìm kiếm một người nào đó cùng trò chuyện, vì cô thường thẫn thờ, nhưng giờ cô đã đi, tất cả những gì anh cần là tự làm bạn với chính mình.

Anh cho là anh chắc phải ám chỉ đến một trong nhiều lá thư từ cô Eloise Bridgerton bí ẩn, vì anh đã gửi lời đề nghị không-hẳn-là-kết-hôn-nhưng-có-thể-là-cái-gì-đó-dẫn-đến-việc-ấy hơn một tháng trước, và sự im lặng nơi cô đã phần nào nói lên, đặc biệt là vì cô thường trả lời những lá thư anh với sự say mê sốt sắng.

Anh cau mày. Cô Eloise Bridgerton bí ẩn không thực sự quá huyền bí. Trong những lá thư của mình, cô khá cởi mở, chân thật, và chắc chắn sở hữu một tính cách tươi vui. Khi cô có tất cả điều ấy, thực sự đó là tất cả những gì anh khăng khăng thời gian cho một người vợ đã tới.

Anh giật mạnh một cái áo sơ mi mặc khi làm việc; anh đã lên kế hoạch trải qua hầu hết thời gian trong nhà kính, xắn tay áo dơ bẩn lên. Anh khá thất vọng vì cô Bridgerton rõ ràng quyết định, anh là loại người mất trí quá khích, cần tránh bằng bất cứ giá nào. Cô có vẻ như là giải pháp hoàn hảo cho những vấn đề của anh. Anh tuyệt vọng cần một người mẹ cho Amanda và Oliver, nhưng chúng trở nên quá cứng đầu đến mức, anh không thể tưởng tượng bất kỳ người phụ nữ nào sẵn sàng đồng ý dính chặt với anh trong hôn nhân,và như vậy tự trói buộc mình với hai đứa nhóc con quái quỷ cả đời (hay ít nhất cho đến khi chúng trưởng thành).

Tuy nhiên, cô Bridgerton đã hai mươi tám, quá rõ ràng là một gái già. Và cô trao đổi thư từ với một người tuyệt đối xa lạ trong hơn một năm; chắc hẳn cô có phần nào tuyệt vọng? Không phải cô đánh giá cao cơ hội tìm kiếm một người chồng? Anh có một ngôi nhà, một gia sản khá lớn, và chỉ mới ba mươi tuổi. Cô còn có thể muốn gì hơn nữa?

Anh làu bàu vài cụm từ khó chịu khi thọc mạnh chân vào cái quần bằng vải len xù xì. Rõ ràng cô muốn gì đó hơn nữa, không thì cô đã ít nhất lịch sự viết thư trả lời và từ chối.

RẦM!

Phillip khẽ liếc lên trần nhà và nhăn mặt. Romney Hall đã cũ kỹ, vững chắc, và được xây rất kiên cố, và nếu cái trần nhà của anh đang rung lên, vậy thì các con anh đã quăng (thảy? ném mạnh?) cái gì thật sự rất lớn.

RẦM!

Anh cau mày. Điều ấy thậm chí nghe tệ hơn. Dù vậy, bà bảo mẫu đang trên ấy với chúng, và bà luôn xoay sở với chúng tốt hơn anh. Nếu anh có thể mang đôi bốt vào dưới một phút, anh có thể ra khỏi nhà trước khi hai đứa nhóc nện thêm vài cú phá hoại nữa, do đó anh có thể vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra.

Anh với tới đôi bốt. Đúng vậy, một ý kiến xuất sắc. Biến ra khỏi tầm nghe, ra khỏi tầm suy nghĩ.

Anh xong phần còn lại với một tốc độ ấn tượng và lao ra đại sảnh, nhanh chóng sải bước về những bậc cầu thang.

“Ngài Phillip! Ngài Phillip!”

Chết tiệt. Giờ tên quản gia đang ở sau anh.

Phillip vờ như không nghe.

“Ngài Phillip!”

“Khỉ gió.” Anh lẩm bẩm. Không có cách nào anh có thể làm ngơ tiếng rống đó, trừ khi anh sẵn sàng chịu đựng sự tra tấn lởn vởn của bọn người hầu, lo lắng về việc tai anh rõ ràng điếc đặc.

“Ừ.” Anh nói, chậm rãi quay lại. “Gì vậy Gunning?”

“Ngài Phillip.” Gunning nói, hắng giọng. “Chúng ta có một người đến thăm.”

“Một người đến thăm?” Phillip nói. “Đó có phải là nguồn gốc của, ờ…”

“Tiếng ồn?” Gunning thêm vào đầy hữu ích.

“Phải.”

“Không.” Tên quản gia hắng giọng. “Cái đó la do các con ngài.”

“Ta hiểu.” Phillip lầm bầm. “Ngu xuẩn làm sao khi ta hy vọng vào cái gì khác.”

“Tôi không tin là bọn trẻ phá vỡ bất kỳ thứ gì đây, thưa ngài.”

“Đó là một sự giảm nhẹ và thay đổi.”

“Thật thế, thưa ngài, nhưng vẫn còn một người đến thăm để suy nghĩ.”

Phillip rên lên. Kẻ quái quỷ nào trên trái đất lại đến thăm vào giờ này của buổi sáng? Họ không quen với việc nhận những người đến thăm, thậm chí là trong những khoảng thời gian phù hợp hơn.

Gunning cố gắng mỉm cười, nhưng ai cũng có thể thấy hắn ta đang thất bại. “Chúng ta thường có những người đến thăm, ngài có nhớ không?”

Đó là vấn đề với những tên quản gia làm việc cho gia đình trước khi ai đó được sinh ra. Bọn họ có xu hướng nghĩ về nhũng lời châm chọc ca ngợi.

“Người đến thăm này là ai?”

“Tôi không hoàn toàn chắc lắm, thưa ngài.”

“Ngươi không chắc lắm?” Phillip không tin được hỏi.

“Tôi không tìm hiểu.”

“Đó không phải là việc những quản gia cần làm sao?”

“Tìm hiểu, thưa ngài?”

“Đúng thế.” Phillip gầm lên, tự hỏi Gunning có phải đang cố gắng để trông thấy ông chủ mình đỏ mặt tía tai như thế nào, để có thể thực sự đổ sụp xuống sàn ngập máu.

“Tôi đã nghĩ để cho ngài hỏi điều ấy, thưa ngài.”

“Ngươi nghĩ ngươi để ta dò hỏi.” Lần này một câu nói phát ra, Phillip nhận thấy thật vô ích khi hỏi tiếp.

“Vâng, thưa ngài. Sau cùng thì, cô ấy đến đây để gặp ngài.”

“Như tất cả những người đến thăm khác của chúng ta, và chưa có gì ngăn ngươi khỏi việc tìm hiểu thân thế của họ trước đây.”

“À, thực ra thì, thưa ngài–”

“Ta hoàn toàn chắc chắn–” Phillip cố gắng ngắt ngang.

“Chúng ta không có người đến thăm, thưa ngài.” Gunning kết thúc, rõ ràng chiến thắng trong trận chiến tranh luận.

Phillip mở miệng để chỉ ra rằng họ đã có những người đến thăm, vào lúc này, từ đây xuống dưới chỉ có một tầng; nhưng thực sự là, đó có phải là vấn đề? “Tốt thôi.” Anh nói, hoàn toàn cáu tiết. “Ta sẽ đi xuống tầng dưới.”

Gunning rạng rỡ. “Xuất sắc, thưa ngài.”

Phillip trân trối nhìn tên quản gia vì sốc. “Người không khỏe hả, Gunning?”

“Không, thưa ngài. Sao ngài lại hỏi thế?”

Thật bất lịch sự khi chỉ ra rằng nụ cười toác hoác khiến Gunning trông khá giống một con ngựa, nên Phillip chỉ lầm rầm, “Không có gì.” và hướng xuống các bậc thang.

Một người đến thăm? Ai là người đến thăm? Đã không ai đến đây trong gần một năm, kể từ khi những người hàng xóm hoàn tất các cuộc thăm hỏi chia buồn bắt buộc. Anh cho là anh không thể thực sự trách cứ vì họ đã giữ khoảng cách; lần cuối cùng họ đến thăm, Oliver và Amnada đã trét mứt dâu lên những chiếc ghế.

Quý bà Winslet đã rời đi trong một tâm trạng tức giận xa hơn bất cứ thứ gì Phillip nghĩ, là tốt cho sức khỏe của một người ở tuổi ấy.

Phillip nhăn mặt khi anh đến những nấc thang cuối cùng, và xoay lại cửa vào đại sảnh. Đây không phải là bà ấy đó chứ, nhỉ? Không phải Gunning đã nói khách của anh là một người phụ nữ sao?

Anh bất chợt dừng lại; thậm chí vấp chân.

Bởi người phụ nữ đứng trước cửa vào đại sảnh còn trẻ, khá xinh, và khi cô ngẩng lên gặp cái nhìn chăm chăm của anh, anh trông thấy cô có đôi mắt xám to nhất, đẹp đến nhói lòng mà anh chưa bao giờ được biết.

Anh có thể chết chìm trong đôi mắt ấy.

Và Phillip không, ngay cả một lần nào có thể tưởng tượng ra, thậm chí nông nổi nghĩ đến từ chết chìm lần nữa.