Chương 1
Đó là một buổi chiều tà của Thượng Hải 1930, một ngày rất u ám, quyện theo cái hanh khô lúc đầu thu. Từ cửa sông Tùng[1], có tiếng con tàu rền rĩ cập bờ vọng đến. Những mái nhà đỉnh nhọn lẫn ống khói ở xa xa, những cầu tàu cùng bậc thềm đột nhiên bị dìm về phía sau đám đông trĩu trịt trên bến cảng, giống như đã chìm khuất xuống dưới, biến thành một bức tranh màu dầu tịch mịch và xám xịt.
Con tàu viễn dương vừa cập bờ xong, cả khách trên thuyền cùng những người ra đón lũ lượt ùa ra. Cao Kính dõi mắt nhìn về phía sau đám đông, nhanh chóng thấy người cậu ta muốn tìm. Đó là một thanh niên vận trường bào, thoạt trông rất tuấn tú. Làn da anh trắng trẻo, vầng trán đầy đặn, anh có một đôi mắt trong vắt, con ngươi đen lay láy, người khác nếu dõi nhìn vào đó sẽ tựa như không thể nào thấy đáy. Dù phía sau anh có mấy gã người mặc áo chẽn[2], đầu đội mũ nồi[3] đang ráo riết đảo mắt ra xung quanh, chừng như rất thiếu kiên nhẫn, nhưng anh không mảy may chú ý, thoạt trông như một người vô cùng nhẫn nại. Ánh mắt anh chỉ nhìn chăm chú vào lối xuất cảng, thảng hoặc trong mắt anh sẽ toát lên vẻ mừng rỡ, nhưng chỉ thoáng qua tích tắc rồi biến mất.
Cao Kính cười nhạt, cậu ta quay lại đưa tay ra với một người phụ nữ đang bế một đứa trẻ: “Người đông như vậy, chị để tôi giúp.” Trên người Cao Kính vận một bộ Âu phục, những đường nét trên khuôn mặt cậu được tôn lên, trông ngời sáng kì lạ. Người phụ nữ kia luôn miệng nói cảm ơn, rồi giao đứa trẻ cho cậu.
Cao Kính bế đứa bé lên che khuất mặt mình, nhanh chân đi qua cửa ra khỏi cảng. Cậu trao lại đứa trẻ cho chị ta, nhìn thấy bóng lưng người thanh niên nọ, mỉm một cái cười mai mỉa. Cậu phủi hết lớp bụi bám trên vành mũ xuống, sau đó cứ thế nghênh ngang đi mất.
Một gã phía sau người thanh niên kia đột nhiên thoáng nhìn thấy bóng lưng Cao Kính, vội vã nói với anh: “Cửu ca, thiếu gia ở bên kia!”
Người thanh niên ấy vừa quay đầu lại, chỉ còn thoáng thấy được bóng lưng Cao Kính đã khuất xa, đám người phía sau anh chực đuổi theo nhưng đều bị anh ngăn cản. Anh hơi cúi thấp đầu xuống, nhẹ giọng: “Thôi bỏ đi.”
Cao Kính nhảy lên một chiếc xe kéo, cười nói: “Đến quán Svena, mau”. Ngồi trên xe kéo, cậu ta ngắm nhìn Thượng Hải ba năm xa cách, những tòa nhà kiểu Tây lẫn Hoa tiếp giáp nhau nhấp nhô cao thấp, biển quảng cáo thuốc lá sáng choang rực rỡ, kiểu chữ khải viết trên cửa trước hiệu thuốc Nam Dương, rồi cả một cô gái nọ đứng ở góc đường, đang mặc một chiếc sườn xám ngắn đỏ màu cà và được xẻ tà đến nửa bắp chân. Khuôn mặt của cô, những sắc thái nơi cô, giống như bài hát “Hoa hồng hoa hồng anh yêu em” đang lan đi trong không khí từ đài phát thanh Osborn[4], chứa đựng một hương vị ngọt ngào ủy mị.
Cao Kính duỗi tấm lưng, nói nhỏ: “Tôi đã về đây.” Chỉ một câu thì thầm khi lâu ngày gặp lại, nhưng với Cao Kính, cậu nói ra nghe như tuyên chiến.
Trong quán café Svena, người người túm tụm vào nhau huyên náo, mùi thuốc lá Ai Cập đặc sánh trong không khí. Nhưng trong cái quán chen chúc ấy vẫn có một người đang ngồi riêng lẻ ở một bàn. Một thước xung quanh gã hoàn toàn trống trải, toàn thân gã mặc quần áo sắc vàng của sĩ quan, cái chân vắt vẻo trên bàn xỏ một chiếc bốt màu đen. Nhưng điều khiến người khác phải dè chừng, chính là trong tay gã đang cầm một cái roi ngựa đen đúa.
Cao Kính dường như không sợ hãi con người này, cậu mỉm cười đi đến chỗ gã. Cậu ngồi xuống phía đối diện, nhìn thoáng qua chỗ rượu của gã, rồi gọi bồi bàn lại nói: “Lấy một chai Whisky đến đây.”
Gã sĩ quan còn trẻ tuổi nở nụ cười mà nói: “Xem ra, Cửu Ca của Hồng Bang tống khứ cậu đi Tô Cách Lan là tống đúng chỗ rồi, cậu không ưa Vodka mà lại đi chuộng Whisky.”[5]
“Nếu hắn làm được thì không chừng đã đẩy tôi đến Tây Bá Lợi Á[6] rồi.” Cao Kính cụng một ly rượu vào ly của gã, rồi ngửa cổ uống cạn một hơi.
“Lão già nhà cậu chết quách rồi, có tính toán gì hay không?” Gã sĩ quan cầm lấy chai Vodka trước mặt, trông như không thể chịu được kiểu uống nhỏ giọt từng ly, nên cầm hẳn lấy cái chai mà nốc hết mấy hồi.
“Cũng còn phải cậy ông trùm Việt Quân[7] như anh giúp đỡ đã.” Cao Kính cười bảo.
“Trùm Việt Quân chính là Trần Tề Đường, lão già không chắc gì sẽ chiếu cố cho cậu, huống hồ nơi này là Thượng Hải, lão cũng không giúp được cậu chuyện gì đâu!” Gã sĩ quan trẻ tuổi nọ lấy chiếc roi ngựa nhếch vành mũ nhà lính của mình lên một chút, để lộ một khuôn mặt với những đường nét sắc lẻm, lười nhác cười bảo: “Có điều thật ra Trần Hướng Đông này có thể chiếu cố được cậu chút đỉnh.”
–
Trời càng lúc càng tối dần, trên đường Phúc Châu, đám kỹ viện, phòng hút[8], quán rượu, nhà hát càng thêm náo nhiệt. Tấm rèm che chỗ hậu trường của đệ nhất sân khấu Đan Quế bị xốc toạc ra. Một cậu trai hãy còn trẻ tuổi đang mơ màng ngủ trên ghế dựa sa sầm mặt mũi, xem ra đang muốn nổi cáu. Trên mặt y, lớp trang điểm diễn kịch chỉ vừa tô được phân nửa, mày ngài mới vẽ còn nhạt, mắt phuợng mảnh và dài, tướng mạo như vậy trông càng có vẻ quyến rũ của phái nữ.
“Đường Ngân Kiệt, cậu lại giở trò gì nữa đây!” Một thanh niên trẻ trung tuấn tú bước đến cười nói.
“Phạm Văn Cổ, cậu đến đây làm gì?” Sắc mặt Đường Ngân Kiệt có nguôi ngoai đôi chút. Y ngả đầu trở về nhắm nghiền hai mắt, từ miệng lại nói ra: “Làm Cửu ca Hồng Bang như cậu không lo trông chừng địa bàn mà lại đến chỗ nhàn hạ của tớ, cậu không sợ có ai đó quấy rối địa bàn của cậu à?”
Phạm Văn Cổ nhấc một giỏ hoa ở bên cạnh y lên, nói: “Cậu ta đã trở về, tớ cũng coi như có thể bàn giao nghỉ ngơi được rồi.”
Hai mắt Đường Ngân Kiệt mở ra, quay sang sửng sốt: “Cậu nói chính là đại thiếu gia Cao Kính của Hồng Bang[9] các cậu?”
Phạm Văn Cổ gật đầu. Đường Ngân Kiệt lạnh nhạt cười một tiếng, “Cậu còn không si tâm vọng tưởng cậu ta nữa đi? Ngày xưa cậu ta dụ dỗ cậu đến tận sông Hoàng Phố, nhất quyết đẩy cậu vào chỗ chết, nếu không phải có lão gia Hồng Bang kia nắm rõ con trai lão như lòng bàn tay, khi đó cậu còn giữ được cái mạng hay sao?”
“Khi xưa cậu ta trẻ người non dạ, hành động nông nổi, động đao động thương cũng coi như bình thường mà thôi. Hiện tại sẽ không giống như thế nữa.” Phạm Văn Cổ man mác mỉm cười, “Huống hồ giờ đây tớ cũng không còn trông mong chuyện gì. Không có hy vọng, thì sẽ không phải thất vọng.”
Đường Ngân Kiệt lườm nguýt anh một cái, ngoảnh mặt sang bên. “Tốt nhất cậu cứ như vậy đi!”
“Thôi không nói tớ nữa, cậu rốt cuộc là vì sao hủy diễn hử? Ông bầu Chu ở ngoài cửa đang cuống cuồng lên kia kìa.”
Đường Ngân Kiệt im lặng không nói, đưa tấm thiếp mời trong tay cho anh. Phạm Văn Cổ nhận lấy lật qua lật lại một chút, cười nói: “Phô trương thật đấy. Định Quân Sơn của Đàm Phú Anh, Khai Sơn Vương Phủ của Kỳ Lân Đồng, Hồi Hộp Mạ Tào của Đổng Lương Thư, Trường Bản Pha của Cao Tào, Tam Tư Hội Thẩm Ngọc Đường Xuân của Mai Lan Phương[10], quả có tụ hội tài năng tinh túy, là nhà nào mở diễn mà làm cho rình rang tới như vậy?”
“Từ đường của Thanh Bang Đỗ Nguyệt Sanh[11] chứ nhà nào!”
Phạm Văn Cổ khẽ nhíu hàng chân mày thanh tú, thốt nhiên nói: “Không sai, hình như tớ cũng đã nhận được thiệp mời!”
Đường Ngân Kiệt bật cười, nói: “Coi kìa coi kìa, cậu làm lão đại Hồng Bang thế kia, mà đầu óc lại đặc như cháo ấy!”
“Tớ vốn không có năng khiếu làm lão đại hắc bang, thật ra cũng chỉ giỏi ghi nhớ sổ sách, tính toán nợ nần chút đỉnh mà thôi.” Phạm Văn Cổ cười bảo, “Có điều tấm bài tử này với cậu chẳng can hệ gì, cậu giận cái gì mới được, là giận người ta không mời mình diễn?”
“Không mời tớ diễn, tớ mà thèm vào quản? Không có kịch tớ diễn mà lại mời tớ đi thì là gọi gì đây?”
Phạm Văn Cổ tư lự một hồi rồi bảo: “Chiến tranh ở Miền Bắc mới tạm dừng, Đỗ Nguyệt Sanh lại tổ chức hội hè đình đám như vậy, chỉ e rằng có mục đích khác. Cũng không biết sau này còn có ngày được thái bình hay không, người ta gọi cậu thì cậu cứ đi thôi!”
“Không đi!”
Phạm Văn Cổ cười mói, “Cậu không chịu đi chỉ e rằng là vì hai gã phiệt quân Quảng Tây mới tới Bến Thượng Hải thôi, nghe đâu hai tên này hảo nam sắc.”
“Bọn chúng vì sao mà không chú ý tới cậu vậy hử?” Đường Ngân Kiệt tàn nhẫn thốt lên, “Thật ra cậu mới cam tâm tình nguyện kia!”
Rồi y trông thấy ánh mắt u buồn của Phạm Văn Cổ, không khỏi thầm hối hận trong lòng.
Phải một lúc sau Phạm Văn Cổ mới hờ hững mở miệng nói, “Cậu nên đi đi, đắc tội với Đỗ Nguyệt Sanh thì cả Thượng Hải này không còn ai ngu ngốc hơn cậu nữa, còn những việc khác…” Phạm Văn Cổ mỉm cười, “Không phải cậu còn Cửu ca Hồng Bang làm chỗ chống lưng hay sao, lẽ nào Đỗ Nguyệt Sanh dám đụng đến người của tớ?”
Đường Ngân Kiệt xấu hổ, dùng tay đẩy Phạm Văn Cổ ra, cười bảo: “Vừa rồi tớ đùa thôi, cậu đừng để bụng.”
Phạm Văn Cổ mỉm cười lắc đầu, “Tớ với cậu quen nhau từ nhỏ đến lớn, còn không biết tính khí cậu đấy à?” Anh đứng dậy ra ngoài, đến bên cửa vén tấm rèm lên, nói tiếp, “Cậu trang điểm cho đẹp nhất để lên sân khấu đi, đừng có phá hỏng danh tiếng của chính mình. Cái tấm biển Cửu ca này không biết sẽ còn che chắn cho cậu được bao lâu nữa đâu.”
Đường Ngân Kiệt nhìn bức rèm còn phơ phất sau khi anh rời đi, im lặng hồi lâu.
–
Đêm vừa lên đèn, trước cửa Đỗ công quán trên phố Hoa Cách Niết[12] huyên náo nói cười, ngựa xe như nước, người gác cổng dùng chất giọng đặc sệt ngữ âm Thượng Hải mà thông báo tên họ của các vị khách đến.
“Hoa Công Quán, Hoa Phổ Hoa lão tiên sinh đến!”
“Thị trưởng Thượng Hải Trương Quần, Trương thị trưởng đến!”
“Công sứ Pháp quốc, A Bối Nhĩ[13], A công sứ đến!”
Đám người phía dưới xe xong rúc rích cười, có ai đó nói: “Công sứ Pháp quốc họ A, gọi là công sứ Vịt, vậy giả như tên là Cơ Đức Mạn thì phải gọi là công sứ Gà có phải không nào?”[14]
Những người khác nín cười bảo: “Cơ Đức Mạn là tên của phụ nữ.”
Người kia bật cười: “Các ông xem, người ngoại quốc nam nữ phân biệt rõ ràng gà vịt như thế đó.” Tất cả đều nhịn không được mà cùng phá lên cười.
“Thiếu tướng Trần Hướng Đông của Sư đoàn 40, Trần thiếu tướng đến!”
Tiếng hô vừa dứt, đã thấy Trần Hướng Đông toàn thân vận quân phục màu vàng đi tới. Trang phục của gã ta vừa có vẻ luộm thuộm lại tùy tiện, nhưng cỏn người toàn thân mặc Âu phục trắng muốt bên cạnh hắn ta trông hết sức tiêu sái bất quần. Đỗ Nguyệt Sanh gầy gò đi ra khỏi nội đường, đích thân nghênh đón bọn họ. Mọi người vốn đương cười nói không hẹn mà cùng im phăng phắc.
“Trần thiếu tướng, đã lâu không gặp! Phụ thân của anh vẫn còn mạnh khỏe chứ?” Đỗ Nguyệt Sanh bắt lấy tay Trần Hướng Đông, cười nói: “Mới hôm trước đây thôi tôi nghe được rằng, Tưởng ủy viên trưởng[15] nhìn Trần đại nhân còn bảo rằng ông là bảo đao chưa gỉ, còn địch được ba sư đoàn kia!”
Ba người bước vào nội đường, thấy bên trong đã có hai quan quân ngồi đó. Một người sắc mặt ngăm ngăm, lông mày rất rậm, ở giữa trán nổi lên một niềm sát khí, gã ta đang ngồi cắn hạt dưa với vẻ mặt sốt ruột. Một người khác trắng trẻo, dáng vẻ cũng coi như rất khôi ngô, nhưng ở đuôi mắt hơi hạ xuống, thoạt trông có một loại sâu hiểm kì dị.
“Hai vị đây chính là đại công thần bình định Quảng Tây!” Đỗ Nguyệt Sanh mỉm cười giới thiệu thay cho Trần Hướng Đông, ông ta chỉ vào gã sĩ quan ngăm đen kia mà nói: “Vị này chính là Dương Đằng Huy, Dương sư trưởng!”. Rồi lại quay sang phía người sĩ quan mặt trắng mỉm cười: “Vị này là Lữ Hoán Viêm Lữ sư trưởng.”
Trần Hướng Đông bắt tay Lữ Hoán Viêm một cách biếng nhác, nhếch miệng cười: “Ông chính là cái tên đã phản bội Du Tác Bách[16], hàng quân trung ương rồi phản quân trung ương, hàng Bạch Sùng Hi sau đó phản Bạch Sùng Hi, lại hàng quân trung ương lần nữa, Lữ Hoán Viêm ba lần trở mặt[17] đây sao?”
Lữ Hoán Viêm coi như không nghe thấy sự mai mỉa của hắn, cười nói: “Năm xưa Gia Cát Lượng dùng kế thu phục Mạch Hoạch, Mạch Hoạch bảy lần trở mặt[18], tôi đây so với Mạch Hoạch chẳng thể nào bì kịp, Tưởng ủy viên trưởng cũng có phải họ Gia Cát đâu, như vậy chỉ trở mặt ba lần là được rồi.”
Trần Hướng Đông nghe vậy bật cười, cũng chẳng buồn để ý. Cao Kính cũng nhìn Lữ Hoán Viêm mấy lượt, thầm nghĩ người này biết co biết dãn, là một kẻ rất lọc lõi. Lúc khách khứa đại thể đã đến đông đủ, Đỗ Nguyệt Sanh bèn mời tất cả đến xem kịch ở đại sảnh.
Vở diễn khai mạc chính là vở Định Quân Sơn của Đàm Phú Anh cho đích thân Đỗ Nguyệt Sanh chọn lựa. Đàm Phú Anh xuất thân võ ban, cho nên tuy rằng diễn vai lão niên Hoàng Trung, nhưng khi vung tay múa đao thì múa rất mực thước gọn gàng, diễn ra cái thần thái càng già càng dẻo dai của Hoàng Trung một cách vô cùng nhuần nhuyễn. Bên dưới khán đài vang dội tiếng trầm trồ tán dương không ngớt, ngay đến Đỗ Nguyệt Sanh cũng liên tục gật gù, quay sang phía Trần Hướng Đông cười nói: “Trần Thiếu Tướng có cảm tưởng gì với vở này chăng, ngài có hài lòng?”
Trần Hướng Đông cười, “Đỗ gia đừng trêu đùa tôi chứ, lão tu sinh kia múa đao trông đẹp mắt thật, nhưng còn hát cái gì thì tôi chẳng thông đâu. Nếu âm nhạc là thức ăn của ái tình, hãy hát nữa đi, hát đến thừa mứa cho những kẻ khát thèm ứ no đến chết… những thứ này tôi còn có thể hiểu được đôi chút.”
Đỗ Nguyệt Sanh sửng sốt, lập tức bật cười: “Hóa ra Trần thiếu tướng thích kịch nói, nhưng đám người già chúng tôi đây chỉ hí hoáy hiểu được loại kịch quốc nội này mà thôi.”
Thanh niên ở bên cạnh Trần Hướng Đông mỉm cười tiếp lời: “Hướng Đông à, vở Đêm Thứ Mười Hai của Shakespears là nói đến nhân sinh lạc quan hài hước[19], vở Định Quân Sơn này lại nói đến cố sự anh hùng hào kiệt, công thành chiếm đất. Quân Sơn vốn là do một viên dũng tướng dưới trướng Tào Tháo là Hạ Hầu Uyên trấn thủ. Hạ Hầu Uyên hung hãn thiện chiến, uy hiếp Trung Nguyên, Thục quốc khi đó không người nào địch lại. Vì vậy Khổng Minh lập mưu khích cho lão tướng Ngô quốc Hoàng Trung xuất mã, vở kịch này nói đến lão Hoàng Trung trí dũng song toàn, xạ tiễn tướng Ngụy, lập kế dùng đao chém đầu Hạ Hầu Uyên.”
Trần Hướng Đông nghe xong qua loa gật đầu, trong lòng Đỗ Nguyệt Sanh có hơi rúng động. Ông ta chọn vở kịch này vốn lẽ là có ý lấy lòng phụ thân của Trần Hướng Đông, là trùm phiệt quân Quảng Đông Trần Tề Đường. Trần Tề Đường chính là người đầu tiên trong giới phiệt quân qui phục chính phủ trung ương của Quốc Dân đảng, hơn nữa trong trận hỗn chiến với quân phiệt không lâu trước đó, lão ta còn sách động được đám đại tướng Quế Hệ[20], không tốn một binh một tốt nào của quân trung ương mà đánh tan tác được mười vạn quân phản loạn ở Quảng Tây. Vì vậy, trong nội các trung ương bấy giờ, Trần Tề Đường trở thành một nhân vật vô cùng trọng yếu.
Đỗ Nguyệt Sanh nghe người thanh niên nhắc đến Khổng Minh khích tướng Hoàng Trung một cách hững hờ, trong lòng không khỏi giật mình, nghĩ bụng chọn vở diễn này quả nhiên có gì đó không ổn. Nếu như Trần Tề Đường nghĩ rằng ông ta đang ám chỉ lão mưu kế không bằng người khác, thì thân làm tay chân của người ta như Đỗ Nguyệt Sanh, há chẳng phải sẽ gặp hệ lụy?
Trong lòng nghĩ vậy, nhưng ngoài miệng ông ta vẫn cười mà hỏi: “Vị này đây là?”
Trần Hướng Đông cười nói: “Y chính là Cao Kính, con trai độc nhất của Hồng Bang lão đại Cao Phủ Cẩm vừa mới qua đời, tôi dẫn y đến đây quả thực là vì muốn y gặp mấy vị bằng hữu mà Đỗ gia vừa giới thiệu!”
Đỗ Nguyệt Sanh lập tức mở cờ trong bụng, vươn tay ra cười nói: “Hạnh ngộ?”
Vở diễn nọ vừa dứt, Đỗ Nguyệt Sanh vốn dĩ cho rằng đám võ tướng kia chí ít cũng thích kịch võ đôi chút, vậy mà trừ ông ta và Cao Kính trông rất hứng thú ra thì những người khác đều lộ vẻ chỉ lộ vẻ đần độn buồn tẻ. Rốt cuộc Đỗ Nguyệt Sanh cũng chẳng thể làm gì khác ngoài buông tay cười nói: “Vở kế cứ để các vị chọn lựa đi vậy.” Rồi gọi quản gia đưa danh mục trong tay cho mình.
Dương Đằng Huy cười nói: “Đỗ gia, thôi danh mục cứ miễn cho, chọn “Tư Phàm” đi!” Mọi người lập tức trầm trồ tán thưởng, ngay cả Trần Hướng Đông cũng ngồi thẳng người dậy, hai mắt rực sáng. Cao Kính nhạo thầm trong bụng. Đỗ Nguyệt Sanh cười ha hả, gọi quản gia tới phân phó đôi câu.
Chẳng bao lâu sau, trên sân khấu liền xuất hiện một người vận phục trang ni cô màu xanh, mắt phượng mày ngài lúng liếng nhìn quanh trông hết mực phong tình. Vậy là người vừa lộ diện, dưới khán đài đã rộ lên tán dương không ngớt. Dương Đằng Huy bật cười khanh khách, nhảy lên sân khấu lôi kéo ni cô kia: “Nào nào đến đây, xuống dưới này mà diễn.” Ni cô cuống quít giãy dụa, nhưng cổ tay đã bị Dương Đằng Huy cầm chặt, dĩ nhiên là không thể thoát ra. Dưới khán đài lại thêm một trận cười rộ lên. Tuy ngồi có một vài chính khách đang ngồi bên dưới, họ cũng hiểu được rằng Dương Đằng Huy đã hơi quá phận, nhưng có cả đám bang chúng hắc bang ngồi trong đại đường kia, trò nháo của Dương Đằng Huy đã gãi đúng điểm ngứa của bọn chúng rồi.
Ni cô kia chính là Đường Ngân Kiệt, y bị Dương Đằng Huy lôi mạnh xuống đài, mũ mão xẹo xọ, phục trang xốc xếch, khiến người khác càng cảm thấy kỳ quái. Đường Ngân Kiệt giận đến run người, y liều mạng đẩy Dương Đằng Huy ra. Gã này đương trong cơn đắc ý, không hề phòng bị Đường Ngân Kiệt dùng sức như vậy mà xô mình, nghiễm nhiên bị đẩy về sau hết mấy bước, chân vấp phải chân ghế, ngã úp mặt vào thành ghế, khiến trong đại sảnh không thể nào nhịn được mà cười vang nắc nẻ.
Đỗ Nguyệt Sanh thấy Dương Đằng Huy biến sắc, lập tức nhìn Đường Ngân Kiệt nói: “Ngươi xướng ngay đi, xướng hay vào, sẽ thưởng ngươi hai mươi đồng đại dương.”
“Còn nếu xướng không hay…” Dương Đằng Huy hừ lạnh, vỗ vỗ vào túi đeo súng bên hông.
Đường Ngân Kiệt cố nén giận, sửa sang lại mũ mão áo quần của y, theo nhạc đệm xướng lên mà bắt đầu cất giọng: “Tiểu ni cô năm nay mới vừa đôi tám, đương thanh xuân đã bị sư phụ cạo đầu, em vốn là nữ kiều nga, chứ phải đâu nam nhi lang.” Đến đây, y nghiến răng mà xướng thành, “Ta vốn là nam nhi lang, chứ không phải nữ kiều nga….”
Dưới khán đài lập tức ồ lên từng lượt từng lượt cười rung chuyển. Dương Đằng Huy đập bàn đứng phắt dậy, sa sầm đanh mặt lại nói: “Đỗ gia, té ra con hát này là muốn chọc giận họ Dương ta!”
Đỗ Nguyệt Sanh không còn cách gì để mở miệng, Lữ Hoán Viêm ở bên cạnh cười nói: “Nói không chừng là dọa anh thôi, không sao không sao, diễn lại là được.”
Đỗ Nguyệt Sanh cũng cười: “Dương sư trưởng chớ nóng nảy, để con hát này diễn lại vậy!” Ông ta quay lại nhìn Đường Ngân Kiệt trầm trầm bảo: “Xướng cho hay vào!”
Nào ngờ đâu từ miệng Đường Ngân Kiệt lại cất cao: “Ta vốn là nam nhi lang, chứ không phải nữ kiều nga.”
Dương Đằng Huy sấn sổ lên mấy bước, một cái bạt tay tát Đường Ngân Kiệt ngã sóng soài trên nền đất. Gã ta rút khẩu súng lục ra. Lữ Hoán Viêm tiến lên phía trước ngăn cản, cười bảo: “Đây là buổi diễn tại nhà Đỗ gia, sao mà giết chóc ở đây được?”
Đỗ Nguyệt Sanh cũng biết rằng mình cũng có chút mất mặt, nói; “Kẻ này là người của đoàn nào, lôi nó xuống duới giải quyết mau, chưa từng có kẻ nào dám đạp đổ đài diễn nhà Đỗ Nguyệt Sanh ta!”
Lữ Hoán Viêm cười nói: “Đỗ gia không cần tức giận, hát sai lời tội cũng có lớn lắm đâu, trách mắng đôi chút là được, là được rồi.” Hắn ta vừa nói vừa cầm một quả táo trên bàn đặt lên đầu của Đường Ngân Kiệt, rồi lùi về phía sau bàn nhặt một con dao gọt hoa quả lên mà cười: “Tôi nghe đâu người Mông Cổ ngày xưa thích trò khoái mã xạ tiễn, tên bắn ra phải trúng giữa hồng tâm. Hôm nay chúng ta không có ngựa cũng chẳng có cung tên, thôi thì lấy táo với dao gọt thay thế, vị nào có thể dùng một nhát bổ đôi táo xem như thắng cuộc.”
Đỗ Nguyệt Sanh không nghĩ được rằng Lữ Hoán Viêm còn ác độc hơn cả Dương Đằng Huy, giết người bất quá là đầu rơi xuống đất, còn trò phóng dao này, dù Đường Ngân Kiệt không bị khoét mất một mắt cũng là bị đâm vào mặt, vở kịch này mười mươi y không còn đất diễn. Nhưng Đỗ Nguyệt Sanh cả đời giết người như ngóe, lại đang sẵn lòng nịnh bợ hai tên quân phiệt Quảng Tây kia, tự nhiên cũng bất động thanh sắc, bình tĩnh quan sát.
Đường Ngân Kiệt sau một lúc sợ hãi liền bị hai tên gia đinh trói chặt, không thể động đậy được mảy may. Chỉ nghe thấy Lữ Hoán Viêm cười cười: “Có vị nào xung phong ném thử?” Hắn ta rút một tờ ngân phiếu đặt lên bàn, “Đây là ngân phiếu của hiệu buôn Sa Tốn[21] phát hành, vị nào thắng cuộc liền có thể lấy được một trăm đồng đại đương.”
Hắn vừa dứt lời, đã có tiếng cười cất lên: “Vậy để tôi thử một chút xem.”
________________________________________
Chú thích
[1] Sông Tùng: Tùng Thủy, là con sông bắt nguồn từ Giang Tô, chảy qua thành phố Thượng Hải, đổ vào sông Hoàng Phố trước khi ra biển.
[2] Áo chẽn: Nguyên văn chính là “đoản quái” (短褂) Đoản là ngắn, quái là áo khoác ngoài. Là dạng áo ngoài đặc trưng của người Hoa đầu thế kỷ này.
[3] Mũ nồi: Nguyên văn là “áp thiệt mạo” (鸭舌帽): QT dịch là mũ lưỡi trai, nhưng theo những gì mình nhớ, nó là loại mũ vải kiểu beret ngày nay.
[4] E. G. Osborn: Ông là một ký giả người Mỹ, và là người đầu tiên lập nên đài phát thanh và các trạm phát tại thành phố Thượng Hải vào mùa đông năm 1923. Phiên âm tên ông sang tiếng Hoa là: 奥斯邦 (Áo Tư Bang)
[5] Tô Cách Lan: Scotland, đây chính là nơi khai sinh ra loại rượu whisky, nên Trần Hướng Đông mới nói đến sự liên quan giữa Scotland và whisky. Người dịch quyết định giữ nguyên cách gọi các danh từ gốc Latinh bằng phiên âm Hán Việt trong các lời thoại để giữ không khí giao thoa văn hóa đặc trưng của thời kỳ này.
[6] Tây Bá Lợi Á: Siberia, vùng cao nguyên miền trung nước Nga, nổi tiếng với khí hậu khắc nghiệt.
[7] Việt Quân: Chữ “Việt” ở đây ám chỉ vùng Lưỡng Quảng, tức Quảng Đông và Quảng Tây. Thời kỳ Dân Quốc, nơi này đã từng là địa bàn của chủ nghĩa quân phiệt, một trong những phe phái quân sự trong cuộc tranh giành quyền lực thống trị của Trung Quốc khi nền phong kiến suy vi. Quân phiệt ở Quảng Tây chia ra nhiều giai đoạn, trong đó có thể tóm gọn lại thành hai Tập Đoàn Quảng Tây (Quế Hệ – Quế cũng là tên gọi khác của vùng Lưỡng Quảng). Quế Hệ Cũ do Lục Vĩnh Đình và một số nhân vật khác lãnh đạo, đến đầu thập niên 1920 thì chuyển sang Quế Hệ Mới do Bạch Sùng Hi và Lý Tông Nhân lãnh đạo. Vào thập niên 40, Bạch Sùng Hi cũng trở thành tướng của Quốc Dân Đảng, tham mưu của Tưởng Giới Thạch.
[8] Phòng hút: Yên quán, là nơi kinh doanh ma túy. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhất là từ sau hai cuộc Chiến Tranh Nha Phiến, Trung Quốc đã ký các hiệp định không bình đẳng với các nước Phương Tây. Người Trung Quốc xuất khẩu các mặt hàng có giá trị cao cho Phương Tây, và đổi lại, Phương Tây đã bán nha phiến cho Trung Quốc. Thuốc phiện từ đó xâm nhập vào đời sống của người Trung Quốc. Nơi trác táng này vừa là minh chứng cho sự ô nhục mà người Trung Quốc phải gánh lấy trong suốt gần một thế kỷ, vừa là địa bàn cho các phe phái đấu đá, thâu tóm và triệt tiêu nhau.
[9] Hồng Bang: Theo những gì mà sử sách ghi lại, vào đầu thập niên 20 của thế kỷ trước, xã hội tội phạm ở Thượng Hải phân thành hai bang phái chính liên tục đấu đá nhau, đó là Hồng Bang (红帮) và Thanh Bang. Ở cấp độ thấp, Hồng Bang và Thanh Bang đạt đến sự cân bằng quyền lực và phân chia địa bàn ảnh hưởng rõ rệt. Tuy nhiên càng về sau, Thanh Bang càng mở rộng và đẩy lùi vị thế của Hồng Bang. Các tư liệu tiếng Anh tìm thấy trên mạng cũng không nói nhiều lắm đến The Red Gang của Thượng Hải. Đây có thể xem như là một tư liệu lịch sử để Triệt Dạ Lưu Hương hư cấu nên tổ chức Hồng Bang của chị (洪帮 – Chữ Hồng được viết khác và có nghĩa là “To lớn”, như Đại hồng thủy). Trong truyện, Hồng Bang là tổ chức tội phạm có thế lực ngang ngửa với Thanh Bang, và trong một vài khía cạnh còn vượt trội hơn cả Thanh Bang. Bằng chứng là ở chapter 5, Đỗ Nguyệt Sanh nói lão đã biết Phạm Cửu ngần ấy năm mà chưa từng đánh bại được anh. Ngoài ra, Hồng Bang (洪帮) trong thực tế còn chỉ đến các tổ chức với đường lối phản Thanh phục Minh mà chúng ta hay biết đến với những cái tên như Thiên Địa Hội, Nghĩa Hòa Đoàn, Hồng Hoa Hội…
[10] Đàm Phú Anh (1906-1977), Kỳ Lân Đồng (Tên thật: Chu Tín Phương, 1895 – 1975), Mai Lan Phương (1894-1961) là là những diễn viên kinh kịch nổi tiếng của Thượng Hải thời kỳ này. Ở Việt Nam chúng ta biết nhiều đến Mai Lan Phương thông qua phim ảnh, sách báo và nhiều nguồn tư liệu khác. Còn Cao Tào và Đổng Lương Thư có vẻ như là nhân vật được hư cấu, hoặc do người dịch chưa tìm được tư liệu tin cậy để xác minh. Các vở diễn thì có Định Quân Sơn, Tam Tư Hội Thẩm Ngọc Đường Xuân đã xác minh là có thật, còn lại thì vẫn đang trong quá trình tìm hiểu.
[11] Đỗ Nguyệt Sanh (1888 – 1951): Ông ta là một nhân vật có thật trong lịch sử, là con người quyền lực nhất trong thế giới ngầm của Thượng Hải thời kỳ Dân quốc. Thanh Bang (The Green Gang) của Đỗ Nguyệt Sanh đã có lúc lên đến 20.000 bang chúng, với phạm vi hoạt động rộng rãi, từ các ngành thương mại dịch vụ đến buôn bán ma túy và bạo lực. Đỗ Nguyệt Sanh có quan hệ sâu rộng với giới chức Thượng Hải bấy giờ, và là một nhân vật quan trọng dưới trướng Tưởng Giới Thạch. Bản thân Tưởng cũng đã từng tham gia Thanh Bang. Có thể tìm đọc tiểu sử Đỗ Nguyệt Sanh và Thanh Bang qua Google.
[12] Đỗ công quán: Từ công quán có thể hiểu là dinh thự. Như vậy, Đỗ công quán là dinh thự của Đỗ Nguyệt Sanh. Tòa nhà này nằm ở số 66 phố Hoa Cách Niết ngày xưa, người dịch đã đi tìm nhưng không thấy tên Latinh của con phố này, đó có thể là phố Haigue, tuy không chắc chắn lắm. Tuy nhiên, hiện tại đây là con đường Ninh Hải Tây của Thành phố Thượng Hải.
[13] A Bối Nhĩ: Albert.
[14] Âm “A” trong phiên âm “A Bối Nhĩ” đọc giống với chữ “Áp” (Vịt). Âm Cơ của “Cơ Đức Mạn” (rất có thể là Kidman) lại đọc giống với chữ “Kê.” Nên có sự trêu chọc ví đàn ông và phụ nữ Tây Phương như gà vịt.
[15] Tưởng ủy viên trưởng: Chính là Tưởng Giới Thạch, tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc. Tưởng Giới Thạch đã là nhân vật quyền lực nhất của Trung Quốc trong nửa đầu thế kỷ 20, trước khi Đảng Cộng Sản chiến thắng và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập vào năm 1949. Sau đó, Tưởng cùng chính quyền Quốc Dân Đảng rút lui về Đài Loan và mãi đến tận năm 1979, Trung Hoa Dân Quốc vẫn được công nhận là chính quyền hợp pháp của Trung Quốc, là đại diện chính thức tại LHQ. Tưởng Giới Thạch cũng đã gây ra cái gọi là căng thẳng hai bờ eo biển Đài Loan – một vấn đề về ý thức hệ – với hệ lụy còn tồn tại đến ngày nay. Về nhân vật này, có thể tìm hiểu qua nhiều nguồn tư liệu. Người dịch cũng sẽ có một bản tóm tắt ngắn về ông ở cuối truyện.
[16] Du Tác Bách (1889 – 1959): Tướng lĩnh cao cấp của Tập Đoàn Quế Hệ Mới.
[17] Bạch Sùng Hi (1893 – 1966): Xem chú thích số 7. Bạch Sùng Hi là người lãnh đạo của tập đoàn Quế Hệ Mới và sau này cũng về dưới trướng của Tưởng Giới Thạch.
[18] Gia Cát Lượng thu phục Mach Hoạch: Vào thời Tam Quốc, nước Thục lấy Tứ Xuyên làm căn cứ. Nhưng ở Tứ Xuyên lại có Mạch Hoạch triệu tập quân mã để chống Thục. Gia Cát Lượng dùng kế thu phục Mạch Hoạch, Mạch Hoạch không phục, cho đó đều là quỉ kế của Gia Cát Lượng. Gia Cát đã thả Mạch Hoạch. Cứ như vậy đến lần thứ bảy Mạch Hoạch mới khâm phục và biết ơn không giết của Gia Cát Lượng. Ở đây dùng chữ “trở mặt” là có hơi dịch thoáng so với điển tích, nghiêng về phía chỉ trích Lữ Hoán Viêm.
[19] Câu mà Trần Hướng Đông Trích là lời thoại nổi tiếng trong vở hài kịch Đêm Thứ Mười Hai (Twelfth Night) của Williams Shakespeare. Nguyên văn: “If music be thefood of love, play on; Give me excess of it, that, surfeiting, The appetite may sicken, and so die“. Vở kịch này đã được dịch sang tiếng Việt và in trong tuyển tập William Shakespeare. Rất tiếc người dịch chưa có điều kiện tiếp cận với bản dịch đáng tin cậy trên, đành phải tự dịch theo hiểu biết cá nhân.
[20] Quế Hệ: Tập Đoàn Quân Phiệt Quảng Tây (xem chú thích thứ 7), ở đây chính là Quế Hệ Mới của Bạch Sùng Hi.
[21] Hiệu buôn Sa Tốn: Là Sassoon House, tòa nhà cao tầng đầu tiên của Thượng Hải, được hoàn thành vào năm 1929 do công ty Cathay Land Co.Ltd của Sir. Victor Sassoon, một người Anh gốc Ả Rập định cư tại Thượng Hải đầu tư Tòa nhà tọa lạc ở ngay Bến Thượng Hải và nhìn ra sông Hoàng Phố trên phố Nam Kinh – trung tâm thương mại lớn nhất thành phố. Độ cao của tòa nhà là 77m, ban đầu tòa nhà có vài tầng được lấy làm khách sạn Cathay, số còn lại được cho thuê, riêng các tầng phần mái dạng kim tự tháp là một nhà hàng, bản thân Sir Victor Sassoon sống ở tẩng trên cùng. Về sau, tòa nhà được dùng làm khách sạn Peace Hotel. Có lẽ, tấm ngân phiếu được phát hành ở đây hoặc là từ ngân hàng hoặc một cơ sở dịch vụ tiền tệ có văn phòng tại tòa nhà Sassoon House, thông tin vẫn đang được xác minh.